Bài 20: Chiều ngoại ô (trang 93, 94, 95, 96, 97) Tiếng Việt lớp 4 Tập 2 – Kết nối tri thức

  • 1Làm xong biết đáp án, phương pháp giải chi tiết.
  • 2Học sinh có thể hỏi và trao đổi lại nếu không hiểu.
  • 3Xem lại lý thuyết, lưu bài tập và note lại các chú ý
  • 4Biết điểm yếu và có hướng giải pháp cải thiện

Câu 1:
Tự luận

Trao đổi với bạn về những điểm khác biệt của thiên nhiên ở thành phố và nông thôn.

Câu 2:
Tự luận

CHIỀU NGOẠI Ô

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

Chiều hè ở ngoại ô thật mát mẻ và cũng thật là yên tĩnh. Khi những tia nắng cuối cùng nhạt dần cũng là khi gió bắt đầu lộng lên. Không khí dịu lại rất nhanh và chỉ một lát, ngoại ô đã chìm vào nắng chiều.

Những buổi chiều hè êm dịu, tôi thường cùng lũ bạn đi dạo dọc con kênh nước trong vắt. Hai bên bờ kênh, dải cỏ xanh êm như tấm thảm trải ra đón bước chân người. Qua căn nhà cuối phố là những ruộng rau muống. Mùa hè, rau muống lên xanh mơn mởn, hoa rau muống tím lấp lánh. Rồi những rặng tre xanh đang thì thầm trong gió. Đằng sau lưng là phố xá, trước mặt là đồng lúa chín mênh mông và cả một khoảng trời bao la, những đám mây trắng vui đùa đuổi nhau trên cao. Con chim sơn ca cất tiếng hót tự do, thiết tha đến nỗi khiến người ta phải ao ước giá mình có một đôi cánh. Trải khắp cánh đồng là ráng chiều vàng dịu và thơm hơi đất, là gió đưa thoang thoảng hương lúa chín và hương sen. Vẻ đẹp bình dị của buổi chiều hè vùng ngoại ô thật đáng yêu.

Nhưng có lẽ thú vị nhất trong chiều hè ngoại ô là được thả diều cùng lũ bạn. Khoảng không gian vắng lặng nơi bãi cỏ gần nhà tự nhiên chen chúc những cánh diều. Diều cốc, diều tu, diều sáo đua nhau bay lên cao. Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng. Những cánh diều mềm mại như cánh bướm. Những cánh diều như những mảnh hồn ấu thơ bay lên với biết bao khát vọng. Ngồi bên nơi cắm diều, lòng tôi lâng lâng, tôi muốn gửi ước mơ của mình theo những cánh diều lên tận mây xanh.

(Theo Nguyễn Thuỵ Kha)

Từ ngữ

Ngoại ô (hay ngoại thành): khu vực bao quanh thành phố.

- Diều cốc, diều tu, diều sáo: các loại diều.

Đoạn mở đầu giới thiệu những gì về chiều hè ở ngoại ô?

Câu 3:
Tự luận

Cảnh vật ở ngoại ô được miêu tả như thế nào?

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

Câu 4:
Tự luận

Vì sao tác giả nói vùng ngoại ô mang vẻ đẹp bình dị?

Câu 5:
Tự luận

Tác giả có cảm nhận như thế nào khi chơi thả diều trong chiều hè ở ngoại ô?

Câu 6:
Tự luận

Nêu ý chính của mỗi đoạn trong bài.

Câu 7:
Tự luận

Thêm trạng ngữ cho mỗi câu dưới đây:

Diều cốc, diều tu, diều sáo đua nhau bay lên cao. Tiếng sáo diều vi vu trầm bổng.

Câu 8:
Tự luận

Nêu công dụng của dấu ngoặc kép trong đoạn dưới đây:

Đọc “Chiều ngoại ô” của Nguyễn Thuỵ Kha, tôi nhớ đến “Buổi sáng mùa hè trong thung lũng” của Hoàng Hữu Bội, “Nắng trưa” của Băng Sơn,... Các nhà văn đã cảm nhận cảnh vật trong mỗi mùa bằng nhiều giác quan, tạo nên những bức tranh phong cảnh mang sắc màu, âm thanh, hương vị,... của cuộc sống.

(Theo Hạnh Hoa)

Câu 9:
Tự luận

Đọc các đoạn văn dưới đây và trả lời câu hỏi.

a. Tả lá

Có những cây mùa nào cũng đẹp, như cây bàng. Mùa xuân, lá bàng mới nảy trông như những ngọn lửa xanh. Sang hè, lá lên thật dày, ánh sáng xuyên qua chỉ còn là màu ngọc bích. Khi lá bàng ngả sang màu lục, ấy là mùa thu. Sang đến những ngày cuối đông, mùa của lá rụng, nó lại có vẻ đẹp riêng. Những lá bàng mùa đông đỏ như đồng ấy, có thể nhìn cả ngày không chán.

(Đoàn Giỏi)

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

– Câu mở đầu đoạn cho biết điều gì?

– Lá bàng được tả theo trình tự nào?

– Theo em, tác giả yêu thích màu lá cây bàng vào mùa nào nhất?

b. Tả hoa

Hoa sầu riêng trổ vào cuối năm. Gió đưa hương thơm ngát như hương cau, hương bưởi toả khắp khu vườn. Hoa đậu từng chùm, màu trắng ngà. Cánh hoa nhỏ như vảy cá, hao hao giống cánh sen con, lác đác vài nhuỵ li ti giữa những cánh hoa.

(Mai Văn Tạo)

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

– Đoạn văn tả những đặc điểm nào của hoa sầu riêng?

– Biện pháp so sánh giúp làm nổi bật đặc điểm nào của hoa?

c. Tả quả

Mùa hè đã đến. Thoắt cái, những chùm nhãn mới đậu đã nhú đều như hạt gạo, hàng nghìn hàng nghìn quả. Như một bà mẹ thương con, cây nhãn dồn tất cả sữa ngọt sữa ngon của mình lên các chùm quả. Thế là quả lớn như thổi: bằng hạt ngô, rồi bằng hòn bi, tròn, đều và chắc. Những quả nhãn no đầy sữa mẹ, ngày lại ngày dầm mưa hè, phơi nắng hè đã chín ngọt lự.

(Theo Vũ Tú Nam)

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

– Tìm câu văn sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá để tả quả nhãn.

– Nêu tác dụng của những biện pháp đó.

d. Tả thân cây

Bên vệ đường, sừng sững một cây sồi. Đó là một cây sồi lớn, hai người ôm không xuể, có những cành có lẽ đã gãy từ lâu, vỏ cây nứt nẻ đầy vết sẹo. Với những cánh tay to xù xì không cân đối, với ngón tay quều quào xoè rộng, nó như một con quái vật già nua cau có và khinh khỉnh đứng giữa đám bạch dương tươi cười.

(Theo Lép Tôn-xtôi)

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

Những từ ngữ nào tả thân cây sồi gây ấn tượng mạnh đối với em?

Câu 10:
Tự luận

Viết đoạn văn tả một bộ phận của cây mà em đã quan sát.

Gợi ý:

- Em muốn tả bộ phận nào của cây? Bộ phận đó có đặc điểm gì nổi bật?

- Khi tả, em nên sử dụng biện pháp so sánh, nhân hoá để đoạn văn thêm sinh động.

Câu 11:
Tự luận

Đọc sách báo về quê hương, đất nước.

Gợi ý:

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

Câu 12:
Tự luận

Viết phiếu đọc sách theo mẫu.

Bài 20: Chiều ngoại ô Tiếng Việt lớp 4 Kết nối tri thức

Câu 13:
Tự luận

Trao đổi với bạn những điều đáng nhớ về các vùng miền đất nước được giới thiệu trong sách báo.

Câu 14:
Tự luận

Chia sẻ với người thân những thông tin thú vị em đọc được về các vùng miền trên đất nước ta.