Bài đọc 4: Ở lại với chiến khu
Trung đoàn trưởng bước vào lán, nhìn cả đội một lượt. Cặp mắt ông ánh lên vẻ trìu mến, dịu dàng. Ông ngồi yên lặng một lúc lâu, rồi lên tiếng:
- Các em ạ, hoàn cảnh chiến khu lúc này rất gian khổ. Mai đây chắc còn gian khổ nhiều hơn. Các em sẽ khó lòng chịu nổi. Nếu em nào muốn trở về sống với gia đình thì trung đoàn cho các em về. Các em thấy thế nào?
Trước ý kiến đột ngột của chỉ huy, bọn trẻ lặng đi. Tự nhiên, ai cũng thấy cổ họng mình nghẹn lại.
Lượm bước tới gần động lửa. Giọng em rung lên:
- Em xin ở lại.
Cả đội nhao nhao:
- Chúng em xin ở lại.
Mừng nói như van lơn:
- Chúng em còn nhỏ, chưa làm được chi nhiều thì trung đoàn cho chúng em ăn ít cũng được. Đừng bắt chúng em phải về, tôi chúng em lắm…
Những lời van xin ngây thơ mà thống thiết, van xin được chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc của các chiến sĩ nhỏ tuổi làm trung đoàn trưởng rơi nước mắt.
Ông nói:
- Nếu các em đều xin ở lại, anh sẽ về báo cáo với Ban chỉ huy.
Bỗng một em cất tiếng hát, cả đội đồng thanh hát vang:
“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi, ra đi, bảo tồn sông núi
Ra đi, ra đi, thà chết không lui…”
Tiếng hát bay lượn trên mặt suối, tràn qua lớp lớp cây rừng, bùng lên như ngọn lửa rực rỡ giữa đêm rừng lạnh tối, làm lòng người chỉ huy ấm hẳn lên.
Theo Phùng Quán
Giải Tiếng Việt lớp 3 (Cánh diều) Tập 2 trang 76, 77, 78 Ở lại với chiến khu
Nghe - viết: Trần Bình Trọng
Giải Tiếng Việt lớp 3 (Cánh diều) Tập 2 trang 74, 75 Viết
Bài đọc 3: Trận đánh trên không
Hai chiếc Mích bám theo nhau cùng vút lên trong khoảng trời xanh lóa nắng. Phía dưới Lương và Sáu, mây đã mỏng và thưa đi, để lộ những dãy núi phơi sống lưng lởm chởm.
- Thăng Long! Mục tiêu phía trước, 12 cây.
- Thăng Long nghe rõ! Tiếng Sáu đanh gọn trả lời.
Thấp thoáng trong mấy mỏng, một thằng địch đang bay là là trên những ngọn núi.
- Xin phép công kích.
- Cho công kích!
Lương đâm xuống ngay trên lưng thằng địch, bắn một loạt đạn. Những đốm lửa đỏ phùn phụt bay về phía trước. Lương vọt lên, vượt qua thằng địch. Nó vẫn bay ngoằn ngoèo.
Chiếc Mích vòng lại, nghiêng cánh bổ xuống lần thứ hai. Chiếc máy bay địch màu càng bẩn cứ mỗi giây một to thêm, lấp đầy cả vòng kính ngắm. Lương bóp cò. Anh có cảm tưởng như đang túm tận gáy thằng địch mà quật xuống. Những đốm đỏ xuyên thẳng vào đầu và cánh chiếc máy bay Mỹ. Những mảnh kim khí và mi ca bắn tung tóe. Một bên cánh của nó văng rời hẳn ra, lửa bốc lem lém lần với khói.
- Cháy rồi! Nó nhảu dù! – Tiếng Sáu reo liên tiếp.
Lương vọt lên cao. Anh còn kịp thấy mở ra hai rồi ba chiếc dù đung đưa.
Theo Nguyễn Đình Thi
Giải Tiếng Việt lớp 3 (Cánh diều) Tập 2 trang 72, 73 Trận đánh trên không
Bài đọc 2: Hai Bà Trưng
Thuở xưa, nước ta bị giặc ngoại xâm đô hộ. Chúng thẳng tay chém giết dân lành, cướp hết ruộng nương màu mỡ. Chúng bắt dân ta lên rừng săn thú lạ, xuống biển mò ngọc trai, khiến bao người thiệt mạng chỉ vì hổ báo, cá sấu, thuồng luồng…Lòng dân oán hận ngút trời, chỉ chờ dịp vùng lên đánh đuổi quân xâm lược.
Bấy giờ, ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha mất sớm, nhờ mẹ dạy dỗ, hai chị em đều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách cùng cùng chí hướng với vợ. Tướng giặc Tô Định biết vậy, lập mưu giết chết Thi Sách.
Nhận được tin dữ, Hai Bà Trưng liền kéo quên về thành Luy Lâu hỏi tội kẻ thù. Trước lúc trẩy quân, có người xin nữ chủ tướng cho mặc đồ tang. Trưng Trắc trả lời:
- Không! Ta sẽ mặc giáp phục thật đẹp để dân chúng thêm phấn khích, còn giặc trông thấy thì kinh hồn.
Hai Bà Trưng bước lên bành voi. Đoàn quân rùng rùng lên đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên mộc cuồn cuộn tràn theo bóng voi ẩn hiện của Hai Bà. Tiếng trống đồng dội lên vòm cây, đập vào sườn đồi, theo suốt đường hành quân.
Thành trì quân giặc lần lượt sụp đổ dưới chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tô Định ôm đầu chạy về nước. Đất nước ta sạch bóng quân thù. Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử nước nhà.
Theo Văn Lang
Giải Tiếng Việt lớp 3 (Cánh diều) Tập 2 trang 69, 70, 71 Hai Bà Trưng
Viết tên riêng: Uông Bí
Giải Tiếng Việt lớp 3 (Cánh diều) Tập 2 trang 68 Viết
Bài đọc 1: Chú hải quân
Vững vàng trên đảo nhỏ
Bồng súng gác biển trời
Áo bạc nhàu nắng gió
Chú mỉm cười rất tươi.
Giữa trập trùng xa khơi
Hải âu vờn quanh chú
Bên đảo đá chơi vơi
Dạt dào ngàn sóng vỗ.
Dù nắng mưa, bão tố
Các chú vẫn hiên ngang
Bao tàu thuyền qua đó
Kéo còi chào ngân vang.
Lá cờ đỏ sao vàng
Phấp phới bay trong gió
Ước mai này như chú
Giữ yên biển quê hương.
Hoài Khánh
Giải Tiếng Việt lớp 3 (Cánh diều) Tập 2 trang 66, 67, 68 Chú hải quân