- Xem lại phần Chuẩn bị ở bài Nguyên Hồng nhà văn của những người cùng khổ để vận dụng vào đọc hiểu văn bản này.
- Đọc trước văn bản Thánh Gióng - tượng đài vĩnh cửu của lòng yêu nước, tìm hiểu thêm thông tin về tác giả Bùi Mạnh Nhị.
- Vận dụng những hiểu biết về truyền thuyết Thánh Gióng (Bài 1) để tìm hiểu thêm văn bản nghị luận này.
Soạn bài Thực hành đọc hiểu: Thánh Gióng - tượng đài vĩnh cửu của lòng yêu nước lớp 6 (Cánh diều)
Hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 5 – 7 dòng) về một tác phẩm, tác giả hoặc nhân vật trong những tác phẩm văn học em đã học; trong đoạn văn có sử dụng biện pháp tu từ so sánh như trong câu sau:
Có thể nói mỗi dòng chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng tình xót thương ép thẳng ra từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình. (Nguyên Đăng Mạnh)
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 78 - 79 lớp 6 (Cánh diều)
Tìm các dấu chấm phẩy được dùng trong những câu dưới đây và chỉ ra tác dụng của chúng trong câu:
a) Ai từng tiếp xúc với Nguyên Hồng đều thấy rõ điều này: ông rất dễ xúc động, rất dễ khóc. Khóc khi nhớ đến bạn bè, đồng chí từng chia bùi sẻ ngọt; khóc khi nghĩ đến đời sống khổ cực của nhân dân mình ngày trước; khóc khi nói đến công ơn của Tổ quốc, quê hương đã sinh ra mình, đền công ơn của Đảng, của Bác Hồ đã đem đến cho mình lí tưởng cao đẹp của thời đại. (Nguyễn Đăng Mạnh)
b) Chẳng hạn, truyện dân gian kể, lúc Lê Lợi sinh ra có ánh sáng đỏ đầy nhà, mùi hương lạ khắp xóm; còn Nguyễn Huệ, khi ra đời, có hai con hổ chầu hai bên. (Bùi Mạnh Nhị)
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 78 - 79 lớp 6 (Cánh diều)
Ghép thành ngữ ở cột bên trái với nghĩa tương ứng ở cột bên phải. Cho biết các thành ngữ ấy sử dụng biện pháp tu từ nào?
Thành ngữ | Nghĩa |
1) Thả con săn sắt bắt con cá sộp | a) làm ra ít tiêu pha nhiều |
2) Thả mồi bắt bóng | b) may mắn rơi vào hoàn cảnh sung túc |
3) Chuột sa chỉnh gạo | c) may mắn có được cái đang cần tìm |
4) Buồn ngủ gặp chiếu manh | d) bỏ cái có thực chạy theo cái hư ảo |
5) Bóc ngắn cắn dài | e) bổ mối lợi nhỏ để thu mối lợi lớn |
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 78 - 79 lớp 6 (Cánh diều)
Thành ngữ ở các câu c, d trong bài tập 1 đều gồm hai vế tương ứng với nhau (trong đó có sự đan xen giữa các từ ở mỗi vế). Ví dụ: cá – chim, chậu – lồng; bể – non, cạn – mòn. Hãy tìm thêm một số thành ngữ được cấu tạo theo kiểu như vậy và giải thích nghĩa của chúng.
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 78 - 79 lớp 6 (Cánh diều)
Giải thích nghĩa của các thành ngữ (in đậm) trong những câu dưới đây:
a) Gióng lớn nhanh như thổi, “cơm ăn mấy cũng không no, áo vừa mặc đã căng đứt chỉ”. (Bùi Mạnh Nhị)
b) Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta nào chịu được. (Tô Hoài)
c) Hai đứa trẻ kia bắt tôi mang về làm miếng mồi méo cho con gà chọi, con họa mi, con sáo mỏ ngà của chúng xơi ngon. Bọn cá chậu chim lồng ấy mà vớ được món ăn mỡ màng như thằng tôi thế này thì phải biết là thích. (Tô Hoài)
d)
Mai sau bể cạn non mòn
À ơi tay mẹ vẫn còn hát ru.
(Bình Nguyên)
e) Ngòi bút của ông dẫn ta đi vào những xóm lao động nghèo đói, lam lũ nhất ngày trước, nơi sống chen chúc những thợ thuyền phu phen, những người buôn thúng bán bưng… (Nguyễn Đăng Mạnh)
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 78 - 79 lớp 6 (Cánh diều)
Từ “chân” trong câu “Dù đi bất cứ đâu ngoài bản cũng chỉ bằng đôi chân.” không cùng nghĩa với từ “chân” trong câu nào sau đây?
A. Hơn hai tiếng đi bộ, đôi chân đã muốn rời ra. (Lam Linh)
B. Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh. (Nguyễn Du)
C. Tôi phải thòng một chân qua khung xe... (Hon-đa Sô-i-chi-rõ)
D. Nước ngập đến tận khoeo chân. (Nguyễn Thuy Anh)
Soạn bài Tự đánh giá - Thẳm sâu Hồng Ngài lớp 6 (Cánh diều)