10 Đề thi Văn 11 Học kì 1 Cánh diều (2024 có đáp án)

Bộ đề thi Học kì 1 Văn 11 Cánh diều (có đáp án 2024) chi tiết giúp học sinh ôn luyện đạt điểm cao trong bài thi Văn 11 Học kì 1. Mời các bạn cùng đón xem:

1 120 lượt xem
Mua tài liệu


Chỉ từ 150k mua trọn bộ Đề thi Ngữ văn 11 Học kì 1 Cánh diều bản word có lời giải chi tiết :

B1: Gửi phí vào tài khoản 0711000255837 - NGUYEN THANH TUYEN - Ngân hàng Vietcombank (QR)

B2: Nhắn tin tới zalo Vietjack Official - nhấn vào đây để thông báo và tài liệu.

Xem thử tài liệu tại đây: Link tài liệu

Bộ đề thi Học kì 1 Ngữ văn 11 (Cánh diều) năm 2024 có đáp án

Sở Giáo dục và Đào tạo ...

Đề thi Học kì 1 - Cánh diều

Năm học ...

Môn: Ngữ văn lớp 11

Thời gian làm bài: phút

Đề thi Học kì 1 Ngữ văn 11 Cánh diều - (Đề số 1)

I. ĐỌC HIỂU (6,0 điểm)

Đọc đoạn trích sau:

Đời tôi, đi đây đó đã nhiều, nhưng lại rất hiếm dịp được thấy Hà Nội. Chỉ một lần thuở bé, rồi một lần hồi chiến tranh, và mấy năm sau này thêm đôi lần nữa. Thành thử, ở Hà Nội, ngoài hồ Hoàn Kiếm với cầu Long Biên, tôi chỉ đại khái biết một ngôi nhà là nhà ga Hàng Cỏ và một con đường là đường xe điện. Nhưng, mặc dù như vậy, mỗi khi nhắm mắt lại nhìn sâu vào những nẻo đường của ký ức, bao giờ tôi cũng thấy hiện lên, tuy rất đỗi mơ hồ, bóng dáng của Hà Nội phố xá. Cái thành phố sâu thẳm, xa lạ, chẳng chút thân thuộc ấy, từ lâu lắm rồi đã lẳng lặng ăn vào đời tôi như là một trong những miền đất thân yêu nhất, dẫu rằng đấy là một tình thân yêu tưởng như không đâu, một duyên nợ hầu như vô cớ. Không hẳn là một nỗi niềm mà chỉ là bâng quơ một cảm giác, không thành một câu chuyện mà chỉ như là một nốt sầu còn vương lại của thời trai trẻ chiến tranh, một thời tuổi trẻ đã hoàn toàn mai một nhưng dư âm vọng suốt đời. Như tiếng mưa rơi. Như tiếng gió lùa. Như tiếng lá rụng. Mà không bao giờ quên.

Từ bấy tới nay, thời gian mất đi đã hai chục năm tròn. Hà Nội thuở đó với Hà Nội bây giờ có lẽ đã như là một trời một vực.

Ngày ấy, từ mặt trận Quảng Trị, tôi lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp Bộ tư lệnh đang đóng ở rìa thủ đô. Khi chúng tôi ra tới nơi, thành phố đang ngất trời bom đạn. Đây thực sự là cuộc đụng đầu sống mái, một trận quyết chiến vì lẽ mất còn. Giữa huống cảnh chung nước sôi lửa bỏng như thế, chẳng dám màng gì một chuyến về quê, tôi chỉ xin được rảo vào phố để rải non chục lá thư của anh em đồng đội người Hà Nội đã gửi gắm. Tôi muốn trao thư tận tay các gia đình, để có thể nhận được ngay hồi âm mang ngược vào đơn vị cho lính ta sướng. Lựa ngày Nô-en, cấp trên thuận cho tranh thủ. Hạn đến 0 giờ phải trở về trình diện.

Tôi vào thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.

Mặc dù không biết phố nào vào với phố nào, lại ôm trong mình những chín lá thư, nhưng thoạt đầu tôi nghĩ không việc gì phải lo. Chỉ cần hỏi tới một địa chỉ, rồi từ đấy lần lượt nhờ người ở địa chỉ trước đưa mình đến địa chỉ sau. Không dè, rốt cuộc, cả chín lá thư tôi đều phải lùa vào phòng qua khe cửa. Ngày hôm ấy, dường như cả Hà Nội đã khoá trái cửa, bỏ nhà đấy mà đi.

Xong được lá thư chót, trời đã tối sầm. Phố dài vắng ngắt ngâm mình trong mưa, tù mù những vùng đèn đường. Tôi hỏi được về Vọng. Một anh dân phòng diện ủng, vận áo tơi bạt, tận tình dẫn tôi đi một đoạn khá xa đường. Đến ngã ba nọ, trước khi chia tay, anh chỉ xuống cặp ray đường tầu điện chạy sát vỉa hè và bảo tôi cứ bám theo đó mà đi là đến.

Sụp mũ cối xuống, dựng cổ áo lên, tôi lần sâu vào trong màn mưa phùn mờ mỏng dưới trời đêm lạnh buốt. Hai vệt ray loáng ướt, chẳng khác nào một lối mòn độc đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen. Thành phố chiến tranh như bên bờ vực, hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại. Thăm thẳm nối nhau những chặng đường khuya không ánh sáng đèn, không một bóng bộ hành, không bóng một hàng quán. Hơi thở lạnh ngắt của đêm mưa ngấm vào tận cái dạ dày tôi trống rỗng. Các khớp xương cóng nhức cứng đơ như đang rời cả ra và rơi rụng. Cơn sốt âm ỉ từ chiến trường dâng lên dọc sống lưng, tôi sởn gai ốc, và không ngớt rùng mình. Đầu óc chậm chạp chung chiêng, đầu gối những muốn khuỵu xuống. Đi chưa được mấy đường, tôi đã bắt đầu đếm bước. Màn đêm ướt át như đông lại. Không nhìn thấy gì trước mắt, suýt nữa thì tôi đã xô người tới va mặt vào một cái đầu tầu điện đen ngòm đậu chết cứng giữa lòng đường.

Chuệnh choạng, tôi rẽ lên vỉa hè, rồi lảo đảo tấp vào dưới mái hiên một ngôi nhà. Răng va lập cập trong miệng, tôi tựa lưng vào cánh cửa đóng chặt, rồi từ từ trượt người xuống, ngồi phệt lên cái bậc tam cấp ướt đẫm hơi mưa và lạnh như một cây nước đá. Rét mướt buốt tim, tôi rên hừ hừ và rồi cũng không rên nổi nữa. Cũng không sao ghìm lại được cơn run, cứ run bắn lên, run cầm cập. Thân nhiệt của mình lúc này có lẽ chỉ còn bằng với người đang ngắc ngoải, cái đầu đã tê cóng của tôi lờ đờ nghĩ, không khéo mà khốn đến nơi rồi, không khéo mà là một cơn ác tính. Những người bị sốt rét ác tính nằm chết trên võng giữa rừng sâu, còn mình thì chết ngồi, chắc thế, và sẽ hoá thành tảng đá co ro trước cửa nhà người ta.

Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa vào tận thềm. Đã ướt lại ướt thêm một lượt nữa, tôi thở hắt, mặt mày xây xầm. Biết là cần phải dốc toàn lực bình sinh mà đứng dậy và bước đi, song hết rồi, nghị lực đã tê bại. Sinh lực xuống nhanh như mực nước trong một cái bình bị đập vỡ đáy, sự sống trong tôi xoay tròn một vòng và từ từ, lặng lẽ lật nghiêng. Đúng khi đó, sau lưng tôi, cửa kẹt mở. Tôi nghe thấy nhưng mà không ý thức được tiếng động ấy. Cơn choáng ngất gần như là một nỗi yếu mềm, một sự buông lơi, như thể một tiếng thở phào, nhẹ nhàng ru tôi ra khỏi tôi...

(Trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh, Nguồn https://kilopad.com/Tieu-thuyet-truyen-ngan-c197/doc-sach-truc-tuyen-khac-dau-man-thuyen-b9317)

Khoanh tròn vào chữ cái đứng trước phương án trả lời đúng:

Câu 1. Xác định ngôi kể của truyện.

A. Ngôi thứ nhất

B. Ngôi thứ hai

C. Ngôi thứ ba

D. Kết hợp ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba

Câu 2. Tác giả chọn điểm nhìn nào?

A. Từ nhân vật tôi

B. Từ anh dân phòng

C. Từ cô gái Hà Nội

D. Từ một người giấu mình

Câu 3. Nhân vật tôi là ai?

A. Một người chiến sĩ

B. Một người Hà Nội

C. Một người dẫn đường

D. Một người lao công

Câu 4. Trong đoạn trích, bức tranh Hà Nội được miêu tả vào thời gian nào?

A. Một chiều thu

B. Một chiều đông

C. Một chiều xuân

D. Một chiều hè

Câu 5. Vì sao người lính bị ốm và thiếp đi trên hè phố?

A. Tuy đi đây đi đó nhiều, nhưng anh lính rất hiếm khi tới Hà Nội.

B. Anh muốn trao tận tay thư cho gia đình đồng đội của mình

C. Nhận nhiệm vụ lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra họp ở thủ đô.

D. Anh đội mưa, chịu cái rét lạnh buốt của mùa đông để đưa thư.

Câu 6. Câu văn nào sau đây sử dụng biện pháp tu từ chêm xen?

A. Trên đầu tôi, mái tôn rách nát run bần bật. Dưới vẫn mưa gió. Gió phả mưa vào tận thềm

B. Thành phố chiến tranh như bên bờ vực, hun hút hoang vắng. Tôi cắm cúi bước, thui thủi, tê dại

C. Chuệnh choạng, tôi rẽ lên vỉa hè, rồi lảo đảo tấp vào dưới mái hiên một ngôi nhà.

D. Hai vệt ray loáng ướt, chẳng khác nào một lối mòn độc đạo xuyên qua rừng rậm nhà cửa tối đen

Câu 7. Dòng nào nêu đúng cảm nhận về khung cảnh Hà Nội trong câu văn sau: “Thành phố, dưới mưa chiều. Mưa phùn mùa đông buồn bã. Mái nhà, lòng đường, vòm cây một mầu thẫm ướt. Xe cộ phóng rất nhanh, người đi bộ gấp bước.”?

A. Khung cảnh tĩnh lặng, đượm buồn, người đi vội vã

B. Khung cảnh đẹp, lãng mạn, phố xá tấp nập.

C. Bức tranh Hà Nội vào buổi chiều nên thơ, lãng mạn

D. Khung cảnh gợi sự buồn, cô đơn, con người vội vã, gấp gáp.

Câu 8. Trong đoạn trích trên, Bảo Ninh đã xây dựng tình huống truyện như thế nào?

A. Dù không biết đường đi Hà Nội, người lính cầm trên tay chín lá thư, nhưng nhờ sự nhiệt tình, anh không lo nghĩ nhiều, ung dung, vui vẻ bước đi.
B. Người lính đội mưa, chịu cái rét lạnh buốt của mùa đông để đưa thư. Cuối cùng anh bị sốt, ngất ngay trên đường đi.

C. Người lính nhận nhiệm vụ đi đưa thư, trên đường đi thì trời mưa phùn, đêm lạnh buốt, anh lính bị ốm và rồi thiếp đi trên hè phố.

D. Người lính ở Quảng Trị, nhận nhiệm vụ lái xe đưa chỉ huy sư đoàn ra Hà Nội họp, trên đường anh lính bị ốm và rồi thiếp đi trên hè phố.

Câu 9. Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp của người lính lái xe trong đoạn trích trên?

Câu 10. Viết đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) nêu suy nghĩ của anh/chị về ý nghĩa sự hi sinh thầm lặng trong cuộc sống.

PHẦN II. VIẾT (5,0 điểm)

Viết bài văn nghị luận phân tích và đánh giá nội dung đoạn trích ở phần đọc hiểu (trích Khắc dấu mạn thuyền, Bảo Ninh).

-----Hết-----

Sở Giáo dục và Đào tạo ...

Đề thi Học kì 1 - Cánh diều

Năm học ...

Môn: Ngữ văn lớp 11

Thời gian làm bài: phút

Đề thi Học kì 1 Ngữ văn 11 Cánh diều - (Đề số 2)

I. ĐỌC HIỂU (5,0 điểm)

Đọc văn bản sau :

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:

“Ai bảo chăn trâu là khổ?”

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được...

Chưa đánh roi nào đã khóc!

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích...

Cách mạng bùng lên

Rồi kháng chiến trường kỳ

Quê tôi đầy bóng giặc

Từ biệt mẹ tôi đi

Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)

Cũng vào du kích

Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)

Giữa cuộc hành quân không nói được một lời

Đơn vị đi qua, tôi ngoái đầu nhìn lại...

Mưa đầy trời nhưng lòng tôi ấm mãi...

Hoà bình tôi trở về đây

Với mái trường xưa, bãi mía, luống cày

Lại gặp em

Thẹn thùng nép sau cánh cửa...

Vẫn khúc khích cười khi tôi hỏi nhỏ

Chuyện chồng con (khó nói lắm anh ơi!)

Tôi nắm bàn tay nhỏ nhắn ngậm ngùi

Em vẫn để yên trong tay tôi nóng bỏng...

Hôm nay nhận được tin em

Không tin được dù đó là sự thật

Giặc bắn em rồi quăng mất xác

Chỉ vì em là du kích, em ơi!

Đau xé lòng anh, chết nửa con người!

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi...

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.

(Giang Nam, Tháng Tám ngày mai, NXB Văn học, 1962)

Lựa chọn đáp án đúng:

Câu 1: Xác định nhân vật trữ tình trong bài thơ trên.

A. Nhân vật cô bé nhà bên

B. Nhân vật anh

C. Tác giả

D. Cô du kích

Câu 2. Chỉ ra cách gieo vần trong đoạn thơ sau:

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:

“Ai bảo chăn trâu là khổ?”

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được...

Chưa đánh roi nào đã khóc!

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích...

A. Gieo vần chân

B. Gieo vần lưng

C. Gieo vần tiếp

D. Gieo vần chéo

Câu 3. Xác định biện pháp tu từ trong hai câu thơ sau:

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi...

A. Ẩn dụ

B. Hoán dụ

C. Liệt kê

D. Đối lập

Câu 4. Nhân vật tôi từ biệt mẹ trong hoàn cảnh nào?

A. Khi quê hương đầy bóng giặc

B. Khi hòa bình lặp lại

C. Khi cùng cô bé nhà bên tham gia du kích

D. Khi cô bé nhà bên hi sinh

Câu 5. Anh/ chị hiểu như thế nào về những câu thơ sau:

Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm

Có những ngày trốn học bị đòn roi...

Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất

Có một phần xương thịt của em tôi.

A. Sự thay đổi trong nhận thức và tình cảm của nhân vật trữ tình.

B. Sự thay đổi trong quan niệm sống của nhân vật trữ tình.

C. Sự thay đổi hoàn cảnh sống của nhân vật trữ tình.

D. Sự thay đổi trong quan niệm về tình yêu của nhân vật trữ tình.

Câu 6. Từ “khúc khích” trong câu thơ “Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích được hiểu như thế nào?

A. Diễn tả cảm xúc vui tươi, hồn nhiên, mừng rỡ.

B. Thể hiện niềm vui chiến thắng.

C. Diễn tả cảm xúc bâng khuâng trong lần gặp lại.

D. Thể hiện sự ngượng ngùng, e thẹn.

Câu 7. Hình ảnh cô bé nhà bên trong bài thơ gợi cho anh/ chị suy nghĩ gì về tuổi trẻ thời kì đấu tranh chống giặc ngoại xâm?

A. Lặng thầm, nhút nhát.

B. Bồng bột, dại khờ;

C. Nhiều khát khao, mơ tưởng;

D. Tuổi trẻ hồn nhiên, dũng cảm.

Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:

Câu 8. Nhận xét về tác dụng của biện pháp tu từ chêm xen trong đoạn thơ sau:

Cô bé nhà bên - (có ai ngờ!)

Cũng vào du kích

Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích

Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi!)

Câu 9. Bài thơ gợi cho anh/chị những suy nghĩ gì về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước?

Câu 10. Trong bài thơ “Quê hương”, nhà thơ Đỗ Trung Quân viết:

Quê hương là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương là đường đi học

Con về rợp bướm vàng bay”

Liên hệ với đoạn thơ sau để nhận xét về tình cảm đối với quê hương của hai tác giả:

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:

“Ai bảo chăn trâu là khổ?”

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được...

Chưa đánh roi nào đã khóc!

II. VIẾT (4,0 điểm)

Anh/ chị hãy viết bài văn nghị luận trình bày suy nghĩ về tính khiêm tốn của con người trong cuộc sống.

-----Hết-----

- Học sinh không được sử dụng tài liệu.

- Giám thị không giải thích gì thêm.

1 120 lượt xem
Mua tài liệu