Tác giả tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 12 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn lớp 12 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 12. Mời các bạn đón xem:

1 81 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Chiếc thuyền ngoài xa - Ngữ văn 12

I. Tác giả Nguyễn Minh Châu

Chiếc thuyền ngoài xa - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Cánh diều

- Tên tuổi:  Nguyễn Minh Châu (1930 -1989)

- Quê quán: Huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

- Quá trình hoạt động cách mạng:

+ Năm 1950 ông gia nhập Quân đội và học trường Sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn.

+ Từ năm 1952 đến năm 1958 ông làm việc tại Sư đoàn 320.

+ Năm 1962 ông công tác tại tạp chí Văn nghệ Quân đội.

+ Năm 1972 ông là thành viên Hội nhà văn Việt Nam.

- Ngòi bút tinh tế đầy truyền cảm trong từng tác phẩm.

- Tác phẩm tiêu biểu: Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985),...

- Sự nghiệp: Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-1989), khép lại với truyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình.

II. Tìm hiểu tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc Thuyền Ngoài Xa: Sự xa xỉ của Quyền con người

1. Thể loại Chiếc thuyền ngoài xa

- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa thuộc thể loại: truyện ngắn.

2. Xuất xứ Chiếc thuyền ngoài xa

- Tác phẩm được trích trong Nguyễn Minh Châu Toàn tập 3, NXB Văn học, Hà Nội, 2001)

3. Phương thức biểu đạt Chiếc thuyền ngoài xa

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

4. Bố cục đoạn trích Chiếc thuyền ngoài xa

- Truyện chia làm 4 phần:

+ Phần 1 : “Lúc bấy giờ...Ở lại chơi thêm vài bữa” : Phùng phát hiện ra bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ở vùng phá.

+ Phần 2 : “Ngay lúc ấy...chiếc thuyền lưới vó đã biến mất” : Cảnh bạo lực gia đình của gia đình hàng chài.

+ Phần 3: “Tôi thầm cảm ơn Đẩu...mẹ nó không bị đánh” : Câu chuyện về người đàn bà hàng chài và thằng Phác.

+ Phần 4 : Đoạn còn lại : Khung cảnh chiếc thuyền trước sóng gió và những suy tư của nhân vật Phùng về bức ảnh được chọn.

5. Tóm tắt Chiếc thuyền ngoài xa 

Cắm trại trên biển nhiều ngày, Phùng đã chụp được những bức ảnh đắt giá về cảnh thuyền và biển cho bộ lịch năm mới. Tưởng chừng Phùng sẽ rời đi với tâm trạng vui vẻ và chiến lợi phẩm nộp lại cho trưởng phòng, thế nhưng trước mặt anh lúc này là một hiện thực phũ phàng. Con thuyền mà anh cho là có vẻ đẹp đắt giá là nơi người chồng đang hành hạ, đánh đập vợ mình một cách dã man. Đứa con của họ vì thương mẹ nên cũng đánh lại cha. Phùng ra tay ngăn cản nhưng không thành, người phụ nữ lúc này được mời lên chánh án. Phùng khuyên người đàn bà bỏ chồng nhưng không được. Người đàn bà ấy kể cho họ nghe lí do vì sao chị không thể bỏ người chồng vũ phu, tệ bạc ấy. Phùng hiểu rằng mọi thứ mình nhìn thấy không phải là toàn bộ câu chuyện. Anh rời đi với nỗi tiếc nuối, dù sau này, những tấm ảnh của Phùng được mọi người rất yêu thích nhưng anh vẫn luôn thấy ở đó những hình ảnh hiện thực đau thương đến không thể quên.

6. Giá trị nội dung Chiếc thuyền ngoài xa

- Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều chứ không thể đánh giá con người, sự vật qua vẻ bề ngoài của nó.

- Đồng thời, câu chuyện trong bức ảnh nghệ thuật cũng đặt ra một vấn đề về nghệ thuật cho người nghệ sĩ. Đó là không nên nhìn cuộc sống qua lăng kính màu hồng mà cần phải lăn xả vào hiện thực để nhìn nhận nó một cách đúng đắn. Phải rút ngắn khoảng cách giữa cuộc sống và nghệ thuật, trả nghệ thuật về đúng với ý nghĩa thực của nó.

7. Giá trị nghệ thuật Chiếc thuyền ngoài xa

- Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo: Tác giả đã dựng nên tình huống nghịch lí giữa hình ảnh của con thuyền khi ở ngoài xa với con thuyền lúc đến gần để tạo ra tình huống nhận thức cho nhân vật của mình, cũng là cho người đọc.

- Cách khắc họa nhân vật, cốt truyện hấp dẫn kết hợp với ngôn ngữ sử dụng rất linh hoạt, sáng tạo góp phần làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm

- Giọng điệu: chiêm nghiệm, suy tư, trăn trở phù hợp với tình huống nhận thức. Đồng thời cũng làm nên nét đặc trưng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Chiếc thuyền ngoài xa - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Cánh diều

1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh

a. Phát hiện “cảnh đắt trời cho”

- Phùng là người say mê nghệ thuật trong một thoáng nhìn anh đã phát hiện ra cảnh đắt trời cho để chớp lấy,

+ Nhận xét “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”, một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích. Đây là cảnh tượng kì diệu của thiên nhiên, cuộc sống khi nhìn từ xa.

+ Phùng bối rối trước cái đẹp: “trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”, nhận ra rằng “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Đó là niềm hạnh phúc của người nghệ sĩ khi bắt gặp cái đẹp, anh nhận ra vai trò thực sự của nghệ thuật.

b. Phát hiện bức tranh cuộc sống đầy nghịch lí

- Từ chiếc thuyền nhỏ đẹp đẽ vừa rồi, Phùng nhận thấy:

+ Người đàn bà thô kệch xấu xí, mặt đầy sự mệt mỏi bước ra và một lão chồng với tấm lưng rộng, mái tóc tổ quạ, đôi mắt độc dữ cùng bước ra từ con thuyền.

+ Lão chồng “dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, “vừa đánh vừa nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”.

+ Trong khi ấy, người đàn bà chỉ cam chịu, không kêu van, hay chống trả, chạy trốn.

- Thái độ của Phùng: “kinh ngạc đến mức trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Phùng ngỡ ngàng nhận ra bản chất thực sự của cái đẹp anh vừa bắt được.

- Nhận xét: đừng nhầm lẫn giữa hiện tượng bên ngoài và bản chất bên trong

2. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện

- Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên li hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa ...đừng bắt con bỏ nó”, theo chị:

+ Người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động.

+ Chị không thể một mình nuôi nấng trên dưới 10 đứa con, vả lại “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái vui vẻ, hòa thuận”.

- Qua câu chuyện và thái độ của người đàn bà, có thể nhận thấy người đàn bà là hiện thân cho kiếp người bất hạnh bị cái đói khổ, cái ác và số phận đen đủi dồn đến chân tường. Nhưng ở chị ta lại có một tâm hồn vị tha, tình yêu thương tha thiết và là người từng trải, sâu sắc.

- Thái độ của chánh án Đẩu và nhiếp ảnh Phùng khi người đàn bà quyết không bỏ chồng:

+ Cả hai đều thấy giận dữ và bất bình

+ Nhưng sau khi nghe tâm sự của người đàn bà anh ta thấy như có “một cái gì vừa mới vỡ ra”.

- Nhận xét: Ban đầu, họ quen nhìn đời bằng con mắt đơn giản một chiều (nghĩ đơn giản rằng những kẻ đi theo ngụy là xấu “lão ta hồi 75 có đi lính ngụy không?”), chỉ biết qua lí thuyết sách vở, không sẵn sàng đối mặt với nghịch lí cuộc đời.

- Bài học rút ra: phải có cái nhìn đa diện về cuộc sống, không nhìn hiện tượng đánh giá bản chất.

3. Tấm ảnh được chọn

- Nghệ sĩ Phùng vẫn mang tấm ảnh đó về tòa soạn, quả nhiên tâm ảnh đã được chọn, được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật:

- Phùng vẫn luôn nhận thấy trong bức ảnh của mình:

+ “cái màu hồng hồng của sương mai” (biểu tượng cho nghệ thuật) và người đàn bà nghèo khổ bước ra từ bức tranh (hiện thân cho đời thực).

- Nhận xét: nghệ thuật chân chính không bao giờ tách rời khỏi cuộc sống.

IV. Các bài văn mẫu

Phân tích truyện Chiếc thuyền ngoài xa

Đề bài: Phân tích bài Chiếc thuyền ngoài xa

Bài tham khảo 1

Có những tác phẩm đọc xong, gấp sách lại là ta quên ngay, cho đến khi bắt gặp lại nó ở đâu đó, ta mới chợt nhận ra là mình đã đọc rồi. Nhưng cũng có những khi, có những tác phẩm đi qua cuộc đời ta, để lại một lớp phù sa, để lại những khắc chạm trong tâm khảm. Chiếc thuyền ngoài xa (1983) của Nguyễn Minh Châu là một trong những truyện ngắn thuộc loại thứ hai này, bởi những gì được thể hiện trong tác phẩm khiến cho người đọc không khỏi những trăn trở, băn khoăn về giá trị nghệ thuật, về cuộc sống và tâm hồn con người.

Nguyễn Minh Châu thuộc thế hệ những nhà văn Việt Nam trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Sau khi nước nhà giành được độc lập, con người ấy lại sớm bắt vào nhịp sống mới của dân tộc, trở thành cây bút tiên phong, nhà văn lớn, “người đã đi được xa nhất” trong cao trào đổi mới văn học. Một trong những tác phẩm tiêu biểu, mang dấu ấn rõ nhất phong cách Nguyễn Minh Châu ở thể loại truyện ngắn chính là Chiếc thuyền ngoài xa.

Với Chiếc thuyền ngoài xa, nhiều hướng tiếp cận đã và đang được đặt ra: tiếp cận tác phẩm từ góc độ nội dung tư tưởng, chủ nghĩa cấu trúc, cảm quan hậu hiện đại, xã hội học, văn bản học... Từ những góc độ tiếp cận đó, các bình diện khác nhau của giá trị tác phẩm đã lần lượt được khẳng định. Trong số những hướng tiếp cận tác phẩm này, tiếp cận dưới góc độ phân tâm học có thể xem là một trong những hướng tiếp nhận khả quan bởi nó giúp mở ra lớp màn sâu kín nhất của tác phẩm, cho ta một cái nhìn mới về một tác phẩm mà giá trị đã được định hình trong tâm khảm nhiều người đọc chúng ta.

Có thể nói, lý thuyết phân tâm học là một trong những lý thuyết không quá xa lạ trên thế giới từ cuối thế kỉ XIX, nhưng phải đến sau 1986 nó mới được chấp nhận ở nước ta. Từ lý thuyết phân tâm học, soi chiếu vào Chiếc thuyền ngoài xa chúng ta sẽ có một cái nhìn, một cách lí giải mới đối với tác phẩm này.

Tác phẩm mở ra từ việc Phùng, phóng viên ảnh đi “săn” một tấm hình chụp cảnh bình minh trên biển. Tấm hình kia phải là một tác phẩm nghệ thuật, dĩ nhiên, như anh nhận thức, cần tránh lặp lại, nhàm chán và quen thuộc. Phùng rời Hà Nội, đi gần sáu trăm cây số, “phục” ở một bờ biển, nơi vẫn còn lưu dấu cuộc chiến tranh: đó là bãi chiến trường. Anh quen được Phác, một cậu bé thông minh ở vùng biển đó. Sau gần tuần lễ, anh vẫn chưa có được kiệt tác mà anh hằng mong muốn. Và rồi anh cũng có một cảnh trời cho: “Trước mắt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào... Toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Nhưng câu chuyện đột ngột chuyển sang một hướng khác, sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc sống” ban cho. Chính từ lúc này, Phùng vấp phải một thách đố khác, có lẽ còn nghiệt ngã hơn cả sự sáng tạo nghệ thuật – thách đố lí giải, nhận thức hiện thực.

Trước cảnh tượng liền kề với khoảnh khắc nghệ thuật, Phùng kinh ngạc đến mức “trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Thế rồi, trước lúc Phùng kịp “nhào tới” nơi người đàn ông mà “tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” đang dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà “cao lớn với những đường nét thô kệch”, anh đã bị ngăn lại bởi “bóng một đứa con nít”, đó là Phác, con trai của cặp vợ chồng kia. Phác giành được chiếc thắt lưng từ tay người đàn ông, “liền rướn thẳng người vung chiếc khóa sắt quật vào khuôn ngực vạm vỡ cháy nắng có những đám lông đen như hắc ín, loăn xoăn từ rốn mọc ngược lên”. Người đàn ông cố giằng lại chiếc thắt lưng, nhưng chẳng được, liền giang tay tát thằng nhỏ hai cái rồi bỏ đi. Và sau đó, “bãi cát lại trở về với vẻ mênh mông và hoang sơ”.

Có lẽ, đó là một hiện thực “quái đản”, một hiện thực hiển nhiên mà không thể lí giải. Người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng sự hành hạ của chồng, người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn như một thói quen, vô cảm và bản năng. Những đứa con phải chứng kiến cảnh bạo lực diễn ra giữa chính cha mẹ chúng. Tất cả diễn ra một cách im lặng và triền miên, ngay sau vẻ giản dị mà toàn bích của thiên nhiên. Cảnh tượng ấy Phùng còn có dịp chứng kiến thêm một lần nữa, và lần này, nếu không có đứa con gái kịp chạy theo ôm lấy thằng Phác và lôi từ cạp quần đùi của nó ra một con dao găm thì không biết chuyện gì đã xảy ra. Lần ấy anh đánh quật ngã đàn ông vũ phu ấy, kết quả là anh phải vào bệnh viện. Đáng ngạc nhiên là khi được gọi lên ủy ban huyện và được khuyên hãy bỏ người đàn ông vũ phu đó thì vợ anh ta liền nói: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...” dù rằng “ bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”.

Quả thực, có rất nhiều những điều khó lí giải trong tác phẩm này nếu chỉ nhìn bằng con mắt phân tích bình thường, nhất là nếu ta mổ xẻ nó theo lối phân tích như trong nhà trường phổ thông. Ví như, phải lí giải sao trước thái độ trái ngược của Phác đối với mẹ và cha? Lí giải sao cho hiện tượng người đàn ông trong tác phẩm từ một người “cục tính nhưng hiền lắm” – theo lời kể của người vợ - lại trở thành kẻ đánh đập vợ như một thói quen, vô cảm và bản năng? Tuy nhiên, nếu thử soi rọi tác phẩm này dưới ánh sáng của phân tâm học thì những thắc mắc trên sẽ trở nên dễ lí giải hơn nhiều.

Trước hết, thái độ của thằng Phác đối với cha và mẹ nó gợi cho ta suy nghĩ gì? Đọc tác phẩm ta dễ dàng nhận ra tình yêu thương mà nó dành cho mẹ, cũng như sự căm ghét dành cho cha. Dường như càng thương mẹ bao nhiêu thì nó càng ghét cha bấy nhiêu. Nó đã từng tuyên bố với các bác ở xưởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dưới biển thì mẹ nó không bị đánh. Và có lẽ trước đây, trước khi Phùng hai lần được chứng kiến cảnh tượng “quái đản” ấy thì Phác đã từng có những hành động “phản kháng” đối với cha nó rồi. Bởi thế thì mới có việc mẹ nó phải gửi nó cho ông ngoại “vì sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột với bố nó”. Ám ảnh trong tôi là hình ảnh thằng Phác với “sự giận dữ căng thẳng” lao qua trước mặt Phùng “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông”, “giành được chiếc thắt lưng”, “rướn người vung khóa sắt quật vào giữa khuôn ngực” của cha nó là ánh mắt “hết sức thù ghét” và giọng hét the thé đầy giận dữ: “Hãy cút đi! Cút đi” mà nó dành cho Phùng sau khi anh chứng kiến cảnh tượng “quái đản” lần thứ nhất. Tại sao vậy? Có phải vì cha nó đánh mẹ nó nên nó mới ghét cha đến như thế? Có phải vì Phùng đã nhìn thấy điều đáng ra không nên thấy? Hay còn vì lí do nào khác được ẩn giấu dưới những lí do nhìn thấy được như thế? Ta chỉ có thể vỡ lẽ điều thắc mắc này khi soi chiếu nó bằng phân tâm học. Theo phân tâm học thì đây chính là mặc cảm Oedipe. Vì mang trong mình mặc cảm này mà Phác mới có thái độ thái quá như vậy với cha nó. Nó căm ghét cha vì nó ghen tức với cha – người nhận được tình yêu từ mẹ nó. Từ sự căm ghét có sẵn trong vô thức, cộng thêm sự bất bình trước hành động mà cha đã làm với mẹ khiến nó trở nên như một con thú hoang, một con hổ sẵn sàng lao vào vồ xé cha mình, và mang trong lòng ý định giết cha để bảo vệ mẹ (thể hiện ở việc cất con dao găm trong cạp quần và chạy đến nơi cha đang hành hạ mẹ nó). Mặc cảm này có sự chuyển vị đối tượng, nên sau khi cha nó bỏ đi và người đàn ông đầu tiên nó nhìn thấy lại là Phùng nên bao nhiêu bực tức trong nó, thái độ của nó đối với cha dường như cũng chuyển sang Phùng. Vì thế, thái độ của nó đối với Phùng - theo ý tôi - cũng không hẳn là vì anh đã vô tình chứng kiến cảnh tượng không nên xem mà còn vì một nguyên nhân khác, đó chính là “mặc cảm Oedipe” trong vô thức của Phác. Cũng chính vì mặc cảm này mà ta có cái nhìn mới hơn trước hành động : “nó lặng lẽ đưa mấy ngón tay khẽ sờ lên khuôn mặt người mẹ như muốn lau đi những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Đó không hẳn là tình thương, tình cảm mẹ - con như giữa mẹ và con gái, mà dường như có cái gì đó như là tình yêu và sự che chở. Nó yêu mẹ nó biết nhường nào! Thái độ của thằng bé như vậy phần nào cũng là do nó biết rằng trong đám con cái đông đúc đang sống dưới thuyền, mẹ nó không yêu một đứa nào bằng nó – “cái thằng con từ tính nết đến mặt mũi giống như lột ra từ cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ”. Thế nên, nó yêu mẹ vì mẹ nó yêu nó nhất trong đám con; nó ghét cha vì cha nó không những dành được tình yêu, sự cam chịu của mẹ nó mà còn vì nó quá giống cha nó chăng?

Một vấn đề nữa cần được giải đáp của tác phẩm mà chỉ có thể được làm sáng rõ bằng phân tâm học đó là hành động đánh vợ của người đàn ông – cha Phác. Để lí giải được điều này chúng ta không thể không xét đến hoàn cảnh sống của gia đình thuyền chài kia. Thử tưởng tượng, trên một con thuyền nhỏ, suốt tháng này sang tháng khác, năm này sang năm khác chỉ lênh đênh trên biển, có lổn nhổn những con người trong một gia đình sinh sống. Vì thế, đừng nói đến việc ở đó không có chỗ riêng tư của vợ chồng mà ngay đến cả chỗ ngủ chung cho cả gia đình ấy cũng còn chật chội, vất vả nữa là. Và rồi, biết bao nhiêu sóng gió, hiểm nguy, vất vả trong cuộc mưu sinh trên biển, rồi những đứa trẻ nối tiếp nhau chào đời lại càng làm cho cuộc sống ngày một thêm khốn khó. Bao nhiêu vất vả, nhọc nhằn, không lối thoát cứ dồn nén lại mà không được giải tỏa. Ngay cả chuyện “vợ chồng” – một hình thức giải tỏa - cũng ngày một thưa dần vì mệt nhọc, bận bịu con cái, rồi sự chật hẹp của con thuyền cản trở. Bực bội, căng thẳng, bế tắc bị dồn nén. Năng lượng tính dục cũng bị dồn nén trở thành những ẩn ức. Con người ta có thể sẽ trở nên phát điên nếu không được giải tỏa khỏi những ẩn ức, dồn nén đó. Và vì không thể thực hiện được quan hệ “vợ chồng” trong hoàn cảnh ấy và trước mặt con cái, người chồng đã chuyển xung năng tính dục ấy sang một hành động khác – đánh vợ. Đánh nhiều lần thành quen tay. Đánh nhiều lần thành chai sạn. Người đàn ông ấy đã dần dần coi đó như một điều tất yếu, một thói quen, một bản năng và vì thế mà trở nên vô cảm trước nỗi đau mà người vợ phải gánh chịu. Còn người vợ, hẳn cũng không phải chỉ vì cuộc sống mưu sinh trên biển cần lắm một người đàn ông “đứng mũi chịu sào”, chèo chống cho cả gia đình mà không thể bỏ chồng, để rồi cứ mãi cam chịu bị hành hạ như thế. Có lẽ, cũng như chúng ta, và hơn cả chúng ta, chị hiểu hơn ai hết lí do nào khiến một người “cục tính nhưng rất hiền”, “không bao giờ đánh đập” chị dù chị đã có con với người đàn ông khác trước khi lấy anh lại trở thành một con người vô cảm, dửng dưng đến thế. Hơn ai hết, người vợ ấy hiểu rằng, đó là lối thoát duy nhất cho chồng chị và cho cả gia đình chị, dù cho chị phải chịu hi sinh chăng nữa. Chỉ có để cho chồng được giải tỏa những ẩn ức bị dồn nén trong một thời gian dài lênh đênh trên biển thì cuộc sống của gia đình chị mới có thể tiếp tục. Một câu hỏi đặt ra là: không có con đường nào khác để giải tỏa ngoài bạo lực ư? Cũng có đấy, ấy là rượu, như những người đàn ông ở các thuyền khác. Nhưng anh lại không uống rượu. Câu nói nghẹn ngào như một lời than thở, một tiếng thở dài của chị cho ta thấy rõ hơn điều này: “Giá mà lão uống rượu... thì tôi còn đỡ khổ...” Từ đây, có thể thấy, anh là một con người hiền lành, lương thiện, không ham mê rượu, chè, cờ, bạc... Nhưng có lẽ cũng vì thế mà anh khổ - khổ vì không tìm được cái gì để giải tỏa ẩn ức - và vợ anh cũng khổ theo - khổ vì thương anh.

Tuy nhiên, trong hành động đánh vợ của người chồng ấy, dưới góc độ của phân tâm học, ta có thể thấy thêm một vấn đề nữa đó là bản năng sống trong anh ta đang mất dần, nhường chỗ cho bản năng chết trỗi dậy, nhất là bản năng gây hấn. Ở một lát cắt của cuộc sống trong tác phẩm này, găm lại trong tâm trí ta không hề có một dấu vết nào của sự lạc quan, yêu đời, hay nụ cười của người đàn ông đó, mà chỉ có ấn tượng về một tiếng quát: “...Động đậy tao giết cả mày bây giờ” về một hình hài: “Tấm lưng rộng và cong như một chiếc thuyền. Mái tóc tổ quạ. Lão đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ” về thái độ “hùng hổ, mặt đỏ gay” về hành động: “chẳng nói chẳng rằng... trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!” về hai cái tát lão dành cho thằng Phác. Tất cả những chi tiết ấy, cùng với chi tiết “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh” đã cho thấy bản năng chết mạnh mẽ ở con người này. Người đàn ông ấy mang cái dáng vẻ thù hằn, bực bội có lẽ là với chính cuộc đời này chứ không phải với vợ con dù ông ta có nghiến răng chửi rủa đi nữa. Ông ta cứ lặp đi lặp lại việc đánh vợ thành thói quen, bản năng. Và hơn nữa, ông ta còn chĩa bản năng gây hấn vào vợ và con trai mình. Như thế, trong những lúc bị dồn nén, ẩn ức, bản năng chết của ông ta trỗi dậy mãnh liệt, lấn át, chi phối tất cả suy nghĩ và hành động của con người này, biến ông ta thành một người chồng vũ phu, tàn bạo.

Lý giải những điều này từ lý thuyết phân tâm học, không hề có ý định biện minh hay ủng hộ cho hành động đáng trách của người đàn ông ấy. Nhưng, qua đó, ta thấy được nguyên nhân nào biến một con người từ hiền lành, không hề đánh vợ thành một người đánh vợ như một thói quen, dửng dưng, vô cảm, để rồi có cái nhìn đúng đắn, nhân ái, độ lượng hơn với nhân vật này nói riêng và nhiều nữa những con người khác trong xã hội nói chung.

Phải nói rằng, với lý thuyết phân tâm học, khi soi chiếu vào Chiếc thuyền ngoài xa, ta có thể có một cái nhìn mới hơn, khác hơn về một tác phẩm đã có quá nhiều hướng nghiên cứu này. Với dung lượng hạn hẹp của bài viết, hẳn nhiên, người viết sẽ khó có thể nói hết, cũng không dám chắc đã chạm đúng dụng ý của nhà văn, song, những gì thể hiện trong bài viết cũng có thể xem như là một bước thử nghiệm hướng nghiên cứu còn khá mới mẻ và nhiều suy ngẫm trong văn học nước ta hiện nay – phê bình phân tâm học.

Nguyễn Minh Châu trước sau vẫn là nhà văn suốt đời không hề mệt mỏi trong cuộc hành hương vô tận đi “tìm cái hạt ngọc ẩn giấu trong tâm hồn con người”. Vì thế, đọc tác phẩm của ông không nên và không thể chỉ nhìn nhận con người ở bề mặt ngôn ngữ mà nên có cái nhìn sâu hơn vào tâm hồn họ để khám phá con người bên trong, tìm kiếm hạt ngọc ẩn trong tâm hồn người đó. Chiếc thuyền ngoài xa cũng không nằm ngoài quy luật này, và phân tâm học chính là một trong những phương thức thích hợp để khám phá thế giới tâm lý phức tạp của nhân vật trong tác phẩm.

Bài tham khảo 2

Nguyễn Minh Châu là cây bút tiên phong của văn học thời kì đổi mới. Nhà văn 'thuộc một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài năng nhất của văn học ta hiện nay” (Nguyên Ngọc). Trước năm 1975, trang văn của ông thiên về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn với quan niệm: cái đẹp là cái anh hùng cao cả, tiêu biểu là truyện ngắn Mảnh trăng cuối rừng in trong tập Dấu chân người lính (1972). Sau 1975, bằng sự tìm tòi, đổi mới, ngòi bút của ông hướng vào những vấn đề thế sự, đời tư, đậm chất triết lí nhân sinh. Bằng cái nhìn đa diện đa chiều, ông đã đi sâu khai thác đời sống con người trong những mối quan hệ xã hội phức tạp để khám phá 'hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người'. Các truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, Bến quê, Bức tranh của ông đều khai thác khá sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người trong cuộc sống mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tìm hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách. Trong đó, Chiếc thuyền ngoài xa sáng tác tháng 8/1983 là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, đồng thời cũng là một tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì đổi mới .

Truyện kể về chuyến đi thực tế của Phùng, một nghệ sĩ nhiếp ảnh tài hoa, thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề, một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn. Theo yêu cầu của trưởng phòng, Phùng đã đến một vùng ven biển miền Trung cũng là chiến trường xưa của anh thời kháng chiến chống Mỹ để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Sau một tuần 'phục kích', anh đã chụp được một 'cảnh đắt trời cho': cảnh chiếc thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Nhưng khi chiếc thuyền ấy vào bờ, anh đã vô cùng ngạc nhiên khi chứng kiến cảnh bạo lực trong gia đình hàng chài: người chồng đánh vợ một cách tàn nhẫn mà người vợ không kêu, không chống trả, không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà đánh cha rồi lại bị cha đánh. Ba ngày sau, cảnh tượng đó lại diễn ra và lần này Phùng đã xông ra buộc lão đàn ông phải chấm dứt hành động độc ác. Lão đàn ông đánh trả, Phùng bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp chánh án Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa của mình. Và cũng tại đây, anh đã nghe câu chuyện của người đàn bà hàng chài với bao sự cảm thông và ngỡ ngàng. Anh đã ngạc nhiên khi chứng kiến việc người đàn bà đáng thương kia được chánh án Đẩu mời đến để giải quyết công việc gia đình đã van lạy quý tòa đừng bắt bà bỏ người chồng vũ phu. Phùng và Đẩu đã vỡ lẽ ra nhiều điều sau khi nghe câu chuyện cuộc đời của người đàn bà. Rời vùng biển với tấm ảnh ưng ý, Phùng đã hoàn thành nhiệm vụ mà trưởng phòng giao. Sau đó, mỗi lần ngắm kĩ tấm ảnh ấy, Phùng vẫn thấy hiện lên màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, Phùng lại thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh. Vậy là trong chuyến đi ấy, Phùng đã chụp được bức ảnh chiếc thuyền ngoài xa và chứng kiến một câu chuyện đẫm nước mắt, đầy trái ngang của một gia đình làng chài để rồi anh đã nhận thức ra nhiều điều về con người, về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật. Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đời đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa đã mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, về cách phát hiện ra bản chất sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng. Theo câu chuyện kể cùng những phát hiện của Phùng, nhà văn đã gửi gắm nhiều thông điệp có ý nghĩa triết lí nhân sinh sâu sắc. Đây cũng là cách xây dựng cốt truyện hấp dẫn, tình huống truyện độc đáo của Nguyễn Minh Châu.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công khi đặt cho truyện ngắn của mình một nhan đề độc đáo, gợi nhiều liên tưởng sâu xa. Hình ảnh “chiếc thuyền” vốn rất quen thuộc trong đời sống đã trở thành là hình ảnh ẩn dụ trong nghệ thuật. “Chiếc thuyền” vừa gợi ra sự thi vị, thơ mộng vừa gợi ra sự lênh đênh, bất trắc. Còn “ngoài xa” là giới định không gian, gợi ra sự xa vời, khó tới, mông lung, vô định. Khi đặt hình ảnh “chiếc thuyền ngoài xa” trong mối quan hệ với các nhân vật thì nhan đề ấy lại gợi ra nhiều ý nghĩa. Với nghệ sĩ Phùng, “chiếc thuyền ngoài xa” trong sương sớm là cảnh đắt trời cho, một vẻ đẹp toàn bích mà anh đã mất công tìm kiếm, là biểu tượng của cái đẹp mà khi chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng với một gia đình hàng chài đông con thì chiếc thuyền đó lại là không gian sinh sống chật chội, là cuộc sống mưu sinh khó nhọc, bấp bênh. Hơn nữa, nhìn xa thì đẹp thế, còn thuyền đó về bờ lại diễn ra cảnh tượng đau lòng: chồng đánh vợ, con đánh cha, cha đánh con. Những hình ảnh ấy, cảnh tượng ấy nếu nhìn từ xa sẽ không bao giờ thấy được. Vậy là chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời thì ở rất gần, người nghệ sĩ đừng vì nghệ thuật mà bỏ quên cuộc đời. Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu, đẹp và xấu, thiện và ác...đó cũng là cách nhìn , cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính. Vì thế người nghệ sĩ không thể nhìn nhận, đánh giá sự vật, con người một cách đơn giản, đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, hình thức bên ngoài và nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất, đừng vội đánh giá con người sự vật ở dáng vẻ bề ngoài, phải phát hiện bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng. Người nghệ sĩ cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều, có cả sự cảm thông, thấu hiểu chân thành sâu sắc thì mới có thể gắn bó và khám phá bản chất cuộc đời đa đoan, đa sự, để phản ánh hiện thực ẩn kín từ cuộc sống, từ con người bên trong. “Chiếc thuyền ngoài xa” đúng là một nhan đề đặc sắc vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa biểu tượng về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật, về cách nhìn con người của người nghệ sĩ. Với nhan đề này, Nguyễn Minh Châu đã gửi gắm những trăn trở của mình về nghệ thuật cùng sự tin yêu, khắc khoải lo âu đối với cuộc sống và con người.

Trong truyện ngắn này, nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, nhân vật Tôi, người trần thuật tham dự, một nghệ sĩ nhiếp ảnh có tài có tâm. Phùng được khắc họa theo kiểu nhân vật tư tưởng. Qua câu chuyện kể và quá trình nhận thức của Phùng, nhà văn đã phát hiện và ca ngợi vẻ đẹp của người nghệ sĩ nhiếp ảnh ấy, một người vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Qua nhân vật này, nhà văn đã cho người đọc thấy hành trình tìm kiếm chân lí của chính mình.

Trước hết, vẻ đẹp của Phùng hiện ra trong hành trình kiếm tìm cái đẹp và lưu giữ cái đẹp. Trước khi là nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng từng là một người lính. Là người bước ra từ cuộc chiến, Phùng tự cho mình là người hiểu đời nhưng trước những biến đổi không ngừng của cuộc sống đã khiến Phùng phải suy tư trăn trở: “Đời chúng tôi, cái đám lính của một thời chống Mĩ, từ sau 1975 thật chẳng ít chuyện trớ trêu và bất ngờ.” Trong tư cách mới là một phóng viên, một nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã tự khám phá thêm về chính mình và cũng hiểu sâu sắc hơn về cuộc đời, con người khi về vùng biển miền Trung theo yêu cầu của trưởng phòng để chụp một bức ảnh với cảnh biển buổi sáng có sương mù về bổ sung cho bộ lịch năm sau. Anh đã tìm về chiến trường xưa cách nơi làm việc 600 km để vừa tìm lại chính mình vừa thể hiện lòng yêu nghề, khát khao sáng tạo cùng trách nhiệm với công việc được giao. Sau một tuần phục kích, lăn lộn, tìm kiếm, lựa chọn, thức khuya dậy sớm, đắn đo cân nhắc nhiều lần, anh đã chụp được một 'cảnh đắt trời cho': cảnh thuyền đánh cá thu lưới lúc bình minh. Đó là cảnh 'thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù màu trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi...'. Đó là một khung cảnh tuyệt mĩ với chiếc thuyền mơ mộng, thanh bình. Quả thật đây là bức họa kì diệu, mĩ lệ mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. Trong con mắt của người nghệ sĩ, khung cảnh vùng nước phá ấy thật thơ mộng, quyến rũ, một khung cảnh mà bất cứ người nghệ sĩ nào cũng mong muốn bắt gặp một lần trong đời làm nghệ thuật của mình. Phùng đã bấm 'liên thanh' một hồi hết một phần tư cuộn phim, thu vào chiếc Pra-ti-ca của mình cái khoảnh khắc đẹp như mơ của thiên nhiên. Khi bất ngờ gặp cảnh đắt trời cho ấy, Phùng đã 'cảm thấy bối rối, trong tim như có cái gì bóp chặt vào, tâm hồn mình được thanh lọc', gột rửa và một niềm hạnh phúc trào dâng trong lòng. Phùng như đã khám phá thấy “cái chân lí của sự hoàn thiện, cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Và tâm hồn anh vì thế ngập tràn hạnh phúc, cái ' hạnh phúc do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh vừa mang lại”. Đó còn là khoảnh khắc thăng hoa trong nghệ thuật. Cũng nhờ đó, anh đã chiêm nghiệm “ bản thân cái đẹp chính là đạo đức”. Phùng vừa hoàn thành nhiệm vụ mà cấp trên giao cho, nhưng hơn cả là Phùng đã tìm thấy tuyệt tác nghệ thuật. Phùng đã phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên và đã ghi lại vẻ đẹp ấy trong những bức ảnh nghệ thuật của mình bằng tất cả sự nhạy cảm, tinh tế, say mê của một tâm hồn nghệ sĩ. Nếu không khát khao sáng tạo, không chấp nhận sự sao chép, đại khái, lặp lại và nếu không có sự rung động chân thành của một tâm hồn mẫn cảm thì Phùng không thể có được bức ảnh ấy và tâm trạng ấy.Chỉ với những phẩm chất này, Phùng đã được đánh giá là một người nghệ sĩ chân chính. Có một điều mà bạn đọc cần lưu ý, đó là nơi nhà nhiếp ảnh ngồi bấm máy. Chẳng chốn Bồng Lai mà chỉ là một bãi biển còn đầy tàn tích chiến tranh với bao xác xe tăng, xe rà phá mìn của công binh Mỹ thua chạy bỏ lại. Phùng ngồi bấm máy phải 'rúc vào bên bánh xích của một chiếc xe tăng để tránh mưa'. Chi tiết này rất quan trọng, nó cho thấy cảnh biển mù sương và con thuyền trong bình minh tuy có đẹp, nhưng cái đẹp ấy chưa trọn vẹn. Vết thương chiến tranh còn in hằn trên bãi biển và trong lòng ngư dân. Chỉ vì Phùng, với tâm hồn lãng mạn của người nghệ sĩ, anh mới thi vị hóa, thần tiên hoá hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa, để rồi sau đó, anh sẽ bị hụt hẫng khi chiếc thuyền đó về bờ.

Không chỉ có tâm hồn nhạy cảm, say mê cái đẹp, tâm huyết với nghề, Phùng còn là một con người có trái tim giàu lòng trắc ẩn, là người luôn trăn trở về thân phận con người và cuộc đời. Vẻ đẹp này được thể hiện rõ qua tâm trạng, thái độ và hành động của Phùng khi phát hiện ra những sự thật đằng sau chiếc thuyền đẹp như mơ khi nó về bờ và khi nghe câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện. Phùng phát hiện ra đằng sau bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp kia là một cảnh tượng phi thẩm mĩ, chứa đựng những sự thật đau lòng về con người. Một hiện thực trần trụi đã mở ra trước mắt Phùng, khi chiếc thuyền ấy về gần bờ, Phùng đã trông thấy một người đàn bà “trạc ngoài bốn mươi, cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ, mệt mỏi”, đi sau là người đàn ông 'cao lớn, dữ dằn, tấm lưng rộng và cong như lưng của một chiếc thuyền với hai con mắt đầy vẻ độc dữ'. Người đàn ông đi phía sau, không nói một lời, nhưng bỗng nhiên trở nên “hùng hổ, mặt mũi đỏ gay” dùng ngay chiếc thắt lưng vụt tới tấp vào người vợ. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Người vợ bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn, còn thằng con vì bảo vệ mẹ mà “giằng thắt lưng, rướn thẳng người, vung chiếc khóa sắt quật mạnh vào ngực cha rồi chính nó lại bị cha tát hai cái khiến nó lảo đảo ngã dúi xuống cát”. Người đàn bà lúc này mới “cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ , nhục nhã” vì đứa con đã nhìn thấy cảnh mình bị đánh đập. Bà mếu máo, ngồi xẹp xuống, ôm chầm lấy con, vái lấy vái để, rồi khóc, “những giọt nước mắt chứa đầy trong những nốt rỗ chằng chịt”. Phùng 'ngơ ngác nhìn' ra bờ phá khi người đàn bà buông đứa con ra, đi thật nhanh đuổi theo lão đàn ông vừa đánh mụ, rồi cả hai cùng đi về thuyền. Bãi cát hoang sơ mà mênh mông, tiếng sóng kêu ồ ồ cất lên. Bức ảnh thế sự ấy diễn ra 'như trong truyện cổ quái đản', chiếc thuyền vó đã biến mất, chắc đã làm cho cách nghĩ, tầm nhìn và cảm quan nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng thay đổi? Bức ảnh thế sự trần trụi ấy đã được Nguyễn Minh Châu kí hoạ, đã được nhà nhiếp ảnh Phùng mục kích và bấm máy thật giàu ý nghĩa. Nghệ thuật hướng về cái đẹp, nhưng không thể là sự lừa dối. Lãng mạn hoá cuộc đời, bôi hồng tô son hiện thực cuộc đời là vô nghĩa khi cuộc đời còn nhiều mồ hôi và nước mắt! Phùng có thể coi đây là một chuyến đi nhiều ý nghĩa: chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa, ẩn hiện trong sương mù, còn sự thật cuộc đời thì lại trần trụi, ở rất gần ngay trước mắt. Qua đó, ta càng thấy rõ một điều: chân lí cuộc đời có lúc không phải là chân lí nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu qua 'Chiếc thuyền ngoài xa' đã nêu lên bài học về cái nhìn đa diện, cái nhìn khám phá trong sáng tạo nghệ thuật đối với nhà nghệ sĩ chân chính giàu bản lĩnh. Thì ra đằng sau cái đẹp tuyệt mĩ mà Phùng vừa mới phát hiện lại là khung cảnh vô cùng tàn nhẫn, nơi mà bạo lực gia đình diễn ra hết sức khủng khiếp. Ba ngày sau, cảnh tượng ấy lại tiếp diễn, nhưng lần này xuất hiện thêm con chị ngăn thằng em, không cho thằng em giết bố. Cảnh tượng đau lòng ấy đặt cạnh bức tranh thơ mộng kia chẳng khác nào một trò đùa ác, đầy trớ trêu, phi lí. Trước cảnh tượng ấy, người nghệ sĩ “kinh ngạc đến thẫn thờ”, “mấy phút đầu cứ đứng há mồm ra mà nhìn”, “chết lặng” rồi chính anh đã sẵn sàng vứt chiếc máy ảnh xuống để giúp đỡ người phụ nữ tội nghiệp, anh còn giận dữ lao ra can ngăn người đàn ông vũ phu bằng đôi bàn tay rắn chắc của người lính vì anh cho rằng“ bất luận hoàn cảnh nào cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ hắn”. Vốn là con người ngay thẳng, nay gặp cảnh tượng tàn nhẫn với người đàn bà bất hạnh kia, anh không thể khoanh tay đứng nhìn, anh không thể làm ngơ trước nỗi đau của người khác. Cũng qua lời xác nhận của cô y tá : “đàn ông vạn chài ai cũng thế” càng giúp anh hiểu ra hiện thực của vùng nước phá mà thiếu chút nữa anh không nhận ra. Anh đã hiểu ra rằng tuy chiến tranh đã kết thúc nhưng nỗi khổ đau của con người thì vẫn còn, cái ác vẫn hiện hình trong cuộc sống tưởng đã bình yên này. Lúc trước, anh nghĩ mình đã thành công, nay thấy mình đã lầm. Anh không thể ngờ đằng sau vẻ đẹp diệu kì của tạo hóa kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Anh đau đớn nhận ra khi màn sương mờ ảo của bức tranh tan dần để lộ ra những đau thương của kiếp người. Cảnh tượng này đã giúp nghệ sĩ Phùng nhận thức đầy đủ và chân thực hơn về cuộc sống: cuộc sống vốn không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng rất nhiều nghịch lí, cuộc đời luôn tồn tại cả xấu - tốt, đúng - sai, rồng phượng - rắn rết. Bởi vậy, khi nhìn nhận bất cứ vấn đề nào cũng phải nhìn sâu, nhìn kĩ, đừng vội vã đánh giá sự vật hiện tượng qua vẻ bề ngoài của nó. Anh phát hiện ra cái đẹp tuyệt mĩ, nhưng đằng sau cái đẹp lại là cái xấu, là hiện thực trần trụi. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi nhìn ở xa, khi quan sát với cái nhìn hời hợt. Bởi vậy, cần nhìn nhận con người, sự việc thấu đáo, toàn diện, thấy được bản chất bề bộn, biến động với những bất ngờ của cuộc đời .

Là một người có trái tim nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn nên khi nghe xong câu chuyện của người đàn bà tại tòa án huyện, Phùng càng nhận ra nhiều điều về cuộc đời, nhất là những vẻ đẹp còn khuất lập trong bề sâu tâm hồn con người. Sau khi bị thương, anh được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Ở đấy, anh đã gặp lại Đẩu, bạn chiến đấu năm xưa giờ là chánh án huyện. Và cũng tại đây, anh đã thấy sửng sốt, sững sờ và cảm thấy ngột ngạt khi nghe người đàn bà hàng chài vừa vái lạy vừa van xin quý tòa: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Lời nói ấy, hành động ấy cho thấy chị đã nhận hết tội về mình, dứt khoát không bỏ người chồng vũ phu đã đánh mình theo quy luật “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Phùng đã không kìm chế nổi cảm xúc của mình, từ chỗ ngồi giấu mặt sau bức màn vải hoa, anh đã bước ra ngoài, hỏi dồn dập người đàn bà nhiều câu hỏi: 'Lão ta hồi bảy nhăm có đi lính ngụy không? Ở trên thuyền có bao giờ lão ta đánh chị không? Cả đời chị có lúc nào hạnh phúc không?'. Đó là sự tò mò, muốn biết nguyên nhân, muốn lí giải thái độ cam chịu, nhẫn nhịn kia của người đàn bà. Đó cũng là cách Phùng bộc lộ thái độ bất bình của mình trước những ngang trái, bất công. Những câu hỏi đó còn cho thấy sự cảm thông, xót xa chân thành của Phùng dành cho người đàn bà bất hạnh kia. Lúc đầu Phùng tham dự trong tư cách người nghe, sau đó Phùng tham dự cuộc đối thoại với mục đích giải tỏa những thắc mắc băn khoăn, Phùng thành người trong cuộc, cùng Đẩu tìm cách giải thoát cho người đàn bà khỏi bất hạnh. Nhưng chính người đàn bà quê mùa thất học kia với những lí lẽ sắc sảo, của một người từng trải, thấu hiểu lẽ đời, giàu đức hi sinh, giàu lòng vị tha lại là người giúp Phùng và Đẩu ngộ ra nhiều chân lí cuộc đời mà lí thuyết sách vở chưa thấu tỏ. Phùng nhận ra cuộc đời này còn nhiều góc khuất, nhiều trái ngang mà nghệ thuật cần vươn tới. Qua đây một lần nữa chúng ta thấy Phùng là một người nghệ sĩ giàu lòng nhân ái, biết cảm thông, chia sẻ với những số phận bất hạnh, biết đấu tranh với cái xấu, cái ác để bảo vệ cái đẹp, cái thiện. Cách Phùng quan tâm thấu hiểu người khác cũng là bài học cho nhiều người nghệ sĩ, bởi người nghệ sĩ không phải lúc nào cũng thấu suốt chuyện đời, nên khi làm nghệ thuật phải để tâm tìm hiểu, trực tiếp đối diện, đối thoại để có cái nhìn đúng đắn sâu sắc, yêu thương hơn đối với con người. Đó chính là triết luận sâu sắc của Nguyễn Minh Châu về trách nhiệm của người làm nghệ thuật với cuộc đời và con người được gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.

Sau chuyến đi thực tế, thành quả mà Phùng thu được là nhiều hơn những gì Phùng mong đợi. Phùng đã chụp được nhiều bức ảnh đẹp đêm về khiến trưởng phòng rất hài lòng về anh. Anh lại có thêm những hiểu biết, những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời, nhất là về nghệ thuật. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn để cho hình ảnh chiếc thuyền xuất hiện ở cả phần đầu và phần cuối của tác phẩm gắn với những tâm trạng, suy nghĩ khác nhau của Phùng. Sau khi gặp người đàn bà ở tòa án huyện, Phùng lại “khoác chiếc máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya”, rồi đêm đó trời đột ngột trở gió, biển bắt đầu gào thét, nhiều tàu thuyền đã tìm vào bờ để trú, duy ở giữa phá vẫn còn một chiếc thuyền lưới vó bè đang đậu. Nhìn chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá ấy, Phùng không khỏi suy nghĩ về cuộc đời. Ở đây, cuộc sống không hề lãng mạn, thanh bình như người ta thường thấy mà nhiều lúc nó vô cùng dữ dội, khốc liệt. Còn con người ở đây mà tiêu biểu là người đàn bà hàng chài kia tuy nhỏ bé nhưng thật mạnh mẽ bền bỉ để chống chọi, để giành giật, để tồn tại trong cuộc đời còn lắm nỗi nhọc nhằn. Tất cả đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm trí của Phùng để mỗi một lần nhìn ngắm tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy, hình ảnh người đàn bà kia lại xuất hiện. Tuy là “bức ảnh đen trắng nhưng khi ngắm kĩ”, Phùng vẫn “thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, hay là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Khi ngắm lâu hơn, Phùng lại “thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng, khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lướt suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân giậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”. Người đàn bà kia đã trở thành hiện thân của những lam lũ, khó nhọc của đời thường. Đây mới là sự thật cuộc đời, là đích đến của nghệ thuật chân chính. Phùng đã nhận ra một cách thấm thía về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính không bao giờ xa rời cuộc đời, thiếu bóng con người. Nghệ thuật không chỉ là nghệ thuật, vì nghệ thuật mà còn là cuộc đời, vì cuộc đời. Đó cũng chính là quan niệm nghệ thuật đúng đắn mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm qua hình tượng nhân vật Phùng.

Với cách kể chuyện hấp dẫn, cùng cách tạo dựng tình huống truyện độc đáo, Nguyễn Minh Châu đã xây dựng thành công nhân vật Phùng, một người nghệ sĩ vừa thiết tha với cái đẹp, tâm huyết với nghề lại có một trái tim giàu lòng trắc ẩn. Nhà văn không lấy những người hùng làm nhân vật trung tâm mà đi sâu tìm tòi, phát hiện vẻ đẹp ở những con người bình thường. Tác phẩm cũng là những đúc kết thấu đáo về nghệ thuật và con người qua những phát hiện khác nhau của Phùng. Qua phát hiện đầu tiên về bức tranh nghệ thuật của Phùng, nhà văn khẳng định: niềm vui lớn nhất của nghệ thuật chân chính là khám phá và lưu giữ cái đẹp, cái đẹp phải tự nhiên, phải hài hòa giữa thiên nhiên và con người, còn trách nhiệm của người nghệ sĩ là phải kiên trì vượt khó, say mê trong hành trình khám phá và lưu giữ cái đẹp ấy. Đến phát hiện thứ hai về bức tranh hiện thực đời sống của Phùng, nhà văn lại đem đến thông điệp đầy ý nghĩa: trước khi là người nghệ sĩ, phải là một con người biết rung động trước nỗi đau, phải biết căm phẫn trước tội ác, biết hành động để cứu đồng loại. Còn phát hiện cuối cùng qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện, nhà văn khẳng định : đừng bao giờ nhìn nhận con người và cuộc đời dễ dãi, xuôi chiều, nghệ thuật chân chính phải gắn liền với cuộc đời, xuất phát từ cuộc đời và quay trở lại phục vụ cho cuộc đời còn người nghệ sĩ cần có tài, có tâm và có đôi mắt đúng, có trái tim biết yêu thương. Qua sự phân tích trên đây, ta có thể khẳng định lại một lần nữa, Phùng thuộc kiểu nhân vật tư tưởng, là nhân vật gửi gắm nhiều suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của chính tác giả về cuộc đời và nghệ thuật.

Nếu như nhân vật Phùng được xây dựng theo kiểu nhân vật tư tưởng, thì nhân vật người đàn bà hàng chài lại được Nguyễn Minh Châu xây dựng theo kiểu nhân vật tính cách, nhân vật số phận, xuất phát từ những quan điểm nghệ thuật mới về con người của nhà văn, của văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

Nhân vật này xuất hiện trong tác phẩm với cái tên gọi chung chung: “người đàn bà hàng chài”. Lúc khác nhà văn lại gọi là “mụ”, là “chị ta”. Không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến mức không thể đặt cho chị một cái tên riêng mà đây là dụng ý của nhà văn: người đàn bà này cũng như bao người đàn bà khác ở vùng biển này, cũng như bao người phụ nữ Việt Nam từ xưa đến nay luôn lam lũ, nhọc nhằn, luôn hết lòng yêu thương chồng con, luôn giàu đức hy sinh và giàu lòng vị tha. Chị là một người đàn bà vô danh nhưng sự xuất hiện của chị giữa cuộc đời không hề vô nghĩa. Qua hình tượng người đàn bà vô danh ấy, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm nhiều triết lí sâu sắc về cuộc đời.

Trước hết, người đàn bà hàng chài là một người phụ nữ có ngoại hình thô nhám, xấu xí và số phận bất hạnh, đau khổ. Nguyễn Minh Châu với những nét vẽ tinh tế đã phác họa nên chân dung một con người độc đáo và đầy ấn tượng: từ nhỏ chị đã là “một đứa con gái xấu, lại rỗ mặt sau một trận lên đậu mùa. Cũng vì xấu, trong phố không ai lấy”. Dù xuất thân khá giả nhưng thua thiệt về nhan sắc nên không ai để ý. Nhưng vì lỡ có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá mà chị lấy anh ta, theo anh ta làm nghề chài lưới, nay đây mai đó. Cuộc sống gia đình bắt đầu rơi vào bi kịch khi họ sinh nhiều con, cuộc sống trên thuyền chật chội, bấp bênh, họ rơi vào cảnh cùng túng, quẫn bách. Anh chồng vốn hiền lành trở nên cục cằn, dữ dằn, thường lôi chị ra đánh. Cuộc sống ấy càng khiến người đàn bà này trở nên đáng thương, thân hình của chị càng trở nên thô nhám: “người đàn bà trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của đàn và vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Một người phụ nữ gây ấn tượng cho người đọc ngay từ những dòng đầu tiên qua sự nhọc nhằn, lam lũ. Người đàn bà ấy còn gợi ở người đọc sự xót xa, thương cảm với “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Chị chưa già nhưng ngoại hình thì quá thô nhám, xấu xí, thô kệch. Sự thua thiệt về nhan sắc ấy vừa toát lên sự nhọc nhằn vừa cho thấy chị đã phải gồng mình lên để chống chọi để mưu sinh giữa cuộc đời. Người đàn bà ấy còn có vẻ cam chịu và nhẫn nhục khi bị người chồng đánh đập tàn nhẫn và mắng nhiếc. Người chồng vũ phu thường dùng chiếc thắt lưng để vụt tới tấp vào người chị. “Lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Tuy bị chồng đánh đập một cách tàn nhẫn nhưng chị “ không kêu van, không chống trả cũng không chạy trốn”. Không phải mình chị bị đánh, thằng con trai của chị vì bảo vệ chị mà lại bị cha đánh. Chứng kiến cảnh ấy chị đau đớn, xấu hổ và nhục nhã, chị đã khóc và ôm lấy con. Ngay sau đó chị lại buông con chạy theo chồng như một minh chứng cho sự lệ thuộc và cam chịu. Sự việc ấy còn diễn ra thường xuyên theo quy luật: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”, hễ lúc nào thấy khổ là chồng chị lại sách chị ra đánh, lão trút cơn giận như lửa cháy lên chị, mà chị vẫn tình nguyện sống với người chồng vũ phu ấy càng cho thấy sức chịu đựng bền bỉ, kiên cường của chị. Nhà văn đã khiến người đọc phải xót xa thương cảm cho một thân phận con người như chị, một nạn nhân đau khổ của cái đói, cái nghèo, cái lạc hậu và nhất là nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nếu chỉ có thế thì nhân vật người đàn bà chưa thể khiến người đọc cảm phục, trân trọng. Nhà văn đã đi sâu khám phá và ngợi ca vẻ đẹp ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn người đàn bà ấy bằng tất cả sự tin yêu của mình đối với con người, tin ở phẩm chất tốt đẹp của con người có thể bị che lấp nhưng không bao giờ mất đi. Vẻ đẹp khuất lấp mà nhà văn tìm kiếm chính là sự sắc sảo, từng trải, thấu hiểu lẽ đời, nhất là sự yêu thương và hy sinh cùng lòng vị tha ở một người đàn bà đầy nghị lực, biết vượt lên số phận kia. Đúng là đằng sau vẻ ngoài xấu xí kia là một nội tâm sâu sắc, một tâm hồn nhân hậu. Điều này đã được lộ rõ qua hành động, lời nói, thái độ cùng câu chuyện cuộc đời của chị khi chị đến gặp chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng ở tòa án huyện. Chị đến tòa án huyện theo lời mời của chánh án Đẩu để giải quyết việc gia đình. Lúc đầu, chị vẫn giữ cái dáng vẻ lam lũ, tội nghiệp vốn có với dáng đi mệt mỏi, chậm chạp, vẫn chiếc áo bạc phếch có miếng vá trên vai, chị sợ sệt, lúng túng, xưng hô lễ phép: xưng “con” với “ quý tòa”, vừa vái lạy vừa van xin: “Con lạy quý tòa…Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó” khi nghe lời khuyên của chánh án, muốn chị li hôn vì “Chị không sống nổi với một người chồng vũ phu ấy đâu!”. Nhưng ngay sau đó để bảo vệ cho cái gia đình nhỏ của mình, chị đã thay đổi cách xưng hô: xưng “chị” với “các chú”, bằng thái độ chủ động, mạnh dạn khác hẳn lúc mới đến tòa án. Chị ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đối diện, mất dần vẻ khúm núm, sợ sệt trước đó, chị tỏ ra tự tin, có lúc còn “thông cảm” với Phùng và Đẩu. Lời nói của chị lúc này tuy là của một người quê mùa thất học nhưng lại vô cùng sắc sảo, thấu hiểu lẽ đời, khiến Phùng và Đẩu ngạc nhiên: “Chị cảm ơn các chú! Đây là chị nói thành thực, chị cảm ơn các chú. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”và những lời tiếp sau đó: “Là bởi vì các chú không phải là người đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông….Đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa.” Đây là những trải lòng chân thành, là sự giãi bày không giấu diếm cảnh ngộ bất hạnh của chị với những người chị tin tưởng. Lời nói ấy chân thành mà chứa đựng bao ẩn ý của một người thấu hiểu sâu sắc lẽ đời. Chị phân tích cho Phùng và Đẩu hiểu những lí do để không muốn bỏ chồng: thứ nhất chị làm nghề chài lưới, trên một chiếc thuyền của gia đình thì không thể thiếu vai trò của người đàn ông, nhất là khi biển động. Thứ hai, với gánh nặng của cuộc sống mưu sinh, một mình chị không thể nuôi nấng chín mười người con. Thứ ba, cũng có lúc trên thuyền vợ chồng con cái quây quần, hạnh phúc, dù ít ỏi nhưng nó cũng phần nào xoa dịu nỗi đau về thể xác sau mỗi lần bị chồng đánh. Những lí lẽ sắc sảo ấy của chị đã khiến Phùng và Đẩu nhận ra mình đã sai, đã phiến diện khi muốn giải quyết câu chuyện gia đình của người khác mà chỉ dựa vào lí thuyết sách vở hay công lí và lòng tốt. Và muốn hiểu con người và cuộc sống hơn cần phải thâm nhập, phải sống thực sự, đừng đứng ngoài cuộc mà phán xét. Kinh nghiệm sống ấy cho thấy chị tuy quê mùa thất học mà những nhận định, đánh giá về vấn đề của cuộc sống của chị lại vô cùng thực tế, không hề bao biện mà thẳng thắn đối diện để nhận thức. Người đọc vì thế thấy nể phục chị hơn bởi sự am hiểu lẽ đời và nhất là sự cứng cỏi, mạnh mẽ phi thường, không đầu hàng số phận, vượt lên trên số phận để sống, để giữ gìn tổ ấm bằng một khát vọng sống mãnh liệt.

Không chỉ sống mạnh mẽ, người đàn bà ấy còn là người hết lòng yêu thương chồng con, luôn hy sinh vì gia đình. Đôi mắt của chị như xuyên sâu vào lòng người đọc, nó ám ảnh cho đến khi ta gấp trang sách lại. Ánh mắt của chị đầy thương xót, đầy ai oán và cũng đầy tình yêu thương dành cho những đứa con cho mình. Dọc theo hình trình đi tìm cái đẹp của nhiếp ảnh Phùng, người đàn bà đã trở thành tâm điểm cho vẻ đẹp ấy. Cách người đàn bà vái lạy để con trai không làm điều dại dột với bố, cũng như vái lạy quan tòa để đừng bắt mình li dị chồng càng toát sự hi sinh, vị tha trong chị. Khi đi đến tận cùng của nỗi đau, khi có một con đường giải thoát thì người đàn bà ấy vẫn lặng lẽ và cam tâm chịu đựng đau khổ? Là vì điều gì? Chẳng phải vì đức hi sinh của người mẹ đó sao? Lời tâm tình của người đàn bà về cuộc sống, về người chồng, về những đứa con khiến người khác vừa thương xót vừa khâm phục. Một người đàn bà yêu chồng, thương chồng mặc dù bị chồng ngược đãi. Chị sẵn sàng chịu những trận đòn roi của chồng để đàn con được ăn no, ngủ yên. Lo thằng Phác sẽ có những hành động sai trái, chị gửi nó lên ở với ông ngoại, để nó không nhìn thấy bố đánh mẹ, để nó khỏi đau lòng và không có những hành động trái với luân thường đạo lí. Chị yêu con, thương con, mong con khôn lớn nhưng không thể bảo vệ được tâm hồn của các con. Người đàn bà yêu con, thương con vô điều kiện mà không đòi hỏi bất cứ điều gì. Khi chị kể đến chi tiết “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” thì người đọc phải ứa nước mắt. Những đứa con là sức mạnh để chị có thể tồn tại, có thể sống sót và kiên cường đến bây giờ. Một người mẹ lặng lẽ hi sinh cuộc đời mình vì những đứa con, một người mẹ đã nhẫn nhục tất cả chỉ vì miếng cơm manh áo cho con. Một người mẹ nghèo, cố chấp nhưng yêu thương con vô bờ bến. Chị biết mình sống là vì ai, chị đã tâm sự: 'Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ. Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như trên đất được!' Tình mẫu tử trong chị thật thiêng liêng cao cả! Cuộc đời của chị có quá nhiều đau thương và nước mắt nên chị càng trân trọng những chắt chiu hạnh phúc bình dị đời thường. Vẻ đẹp nhất ở chị đúng là đức hi sinh, là tình yêu thương chồng con sâu sắc và chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng ấy.

Nói tóm lại, nhà văn đã dùng công xây dựng nhân vật người đàn bà để thể hiện quan điểm mới của mình về con người. Người đàn bà hàng chài là hình ảnh đại diện cho những con người vô danh, nghèo khổ, lam lũ nhưng lại có vẻ đẹp tâm hồn đáng quý khiến họ trở nên không hề nhỏ bé mà là hiện thân của những gì đẹp đẽ nhất. Người đàn bà quê mùa thất học nhưng không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch. Thực ra chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Chị có một cuộc sống nhọc nhằn lam lũ nhưng biết chắt chiu từng hạnh phúc bình dị đời thường. Chị luôn sống với một tâm niệm thiêng liêng là hy sinh vì chồng con. Chị có ngoại hình thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. Không phải ngẫu nhiên tác giả chỉ gọi nhân vật là “người đàn bà”, có lẽ không phải chỉ một người đàn bà duy nhất, mà có thể chúng ta còn bắt gặp rất nhiều người đàn bà có chung cảnh ngộ ở bất cứ bãi biển nào. Nguyễn Minh Châu đã vẽ lên một bức chân dung khiến cho người đọc phải suy ngẫm, phải trăn trở về cuộc sống của rất nhiều người xung quanh chúng ta. Và cái hình ảnh mà nhiếp ảnh Phùng chụp được cũng như những gì anh nghĩ về người đàn bà này là triết lí, một triết lí cho cái nhìn nhận đa chiều về cuộc sống này. Người đàn bà đó chính là nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, cũng như tác giả đã dùng cái tâm để vẽ lên hình ảnh đó.

“Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm có tình huống truyện rất độc đáo, hấp dẫn. Nó được thể hiện qua những phát hiện chân thực của nhân vật Phùng. Tình huống truyện đầy bất ngờ và chứa nhiều câu chuyện mà qua đó tạo bước ngoặt trong nhận thức của nhân vật về nghệ thuật và cuộc sống. Chính tình huống đã làm cho truyện 'Chiếc thuyền ngoài xa' vừa chân thực, vừa mang ý nghĩa phát hiện sâu sắc về đời sống.

Về ngôn ngữ, dường như tác giả rất dựng công trong việc tỉ mỉ điều khiển đội quân ngôn ngữ của mình. Truyện ngắn cho ta thấy được sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Minh Châu trong việc tả cảnh, tả người, dựng đối thoại hay kể chuyện. Bên cạnh đó là thứ ngôn ngữ đậm màu sắc triết lí, ngôn ngữ kể chuyện theo lối đổi ngôi khiến câu chuyện vừa khách quan vừa thuyết phục.

Về cách xây dựng nhân vật, nhà văn đã tạo ra những nhân vật vừa quen vừa lạ, có những vẻ đẹp khuất lấp, chứa đựng nhiều quan niệm về con người của Nguyễn Minh Châu.

Về giọng văn thì thay đổi linh hoạt: lúc say sưa tả cảnh, lúc hài hước tự trào, lúc lại suy tư day dứt chiêm nghiệm,…

Nói tóm lại, 'Chiếc thuyền ngoài xa' là một truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu. Cốt truyện giản dị mà chứa đựng những tình huống mang tính khám phá về cuộc sống. Truyện ngợi ca con người và giãi bày những trăn trở của nhà văn về cuộc sống đa chiều, phức tạp với bao nhọc nhằn đè nặng lên số phận con người. Tác phẩm đặt ra vấn đề về cách nhìn nhận cuộc sống và con người, nhất là mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời.

1 81 lượt xem