Sự kết hợp giữa thuyết minh với miêu tả trong văn bản trên đã đem đến hiệu quả gì?
A. Thông tin được đề cập cụ thể, sinh động và dễ hình dung hơn
B. Nội dung được đề cập giàu tính thẩm mĩ và tính hư cấu hơn
C. Văn bản có đầy đủ đặc điểm của phong cách ngôn ngữ báo chí
D. Văn bản thể hiện rõ hơn nét văn hoả của người dân ở Sóc Trăng
Soạn bài Lễ hội Ok Om Bok lớp 10 (Cánh Diều)
Vì sao người Khmer ở Sóc Trăng lại làm lễ vật cúng Mặt Trăng vào khoảng giữa tháng 10 âm lịch hằng năm?
A. Vì người Khmer ở Sóc Trăng coi Mặt Trăng là vị thần điều tiết mùa màng
B. Vì đấy là khoảng thời gian mà người Khmer ở Sóc Trăng nhàn nhã nhất
C. Vì đó là những ngày cuối mùa khô, tiện cho việc thu hoạch các loại hoa màu
D. Vì đây là lúc thu hoạch lúa nếp và đủ các loại hoa màu để làm lễ vật cúng
Soạn bài Lễ hội Ok Om Bok lớp 10 (Cánh Diều)
Vì sao nhan đề của văn bản là Lễ hội Ok Om Bok mà không phải là Lễ hội Ok Om Bok- Đua ghe ngo?
A. Vì đây là lễ hội của đồng bào Khmer ở Sóc Trăng
B. Vì hoạt động đua ghe ngo không diễn ra năm nay
C. Vì đua ghe ngo chỉ là một hoạt động trong lễ hội
D. Vì điểm nhấn của lễ hội chính là Giải Đua ghe ngo
Soạn bài Lễ hội Ok Om Bok lớp 10 (Cánh Diều)
Hãy viết một văn bản, trong đó có sử dụng số liệu, hình ảnh hoặc sơ đồ,... để trình bày về một trong các đề tài sau đây.
a) Các chủ đề về nghị luận văn học hoặc nghị luận xã hội được học ở Ngữ văn 10, tập một.
b) Hệ thống các văn bản đọc hiểu được học ở Ngữ văn 10, tập một
c) Hệ thống kiến thức tiếng Việt được học ở Ngữ văn 10, tập một.
d) Những điều cần chú ý khi tham gia lễ hội truyền thống ở Việt Nam.
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 104 Tập 1 lớp 10 (Cánh Diều)
Phân tích tác dụng của những kiểu trích dẫn, chú thích trong các đoạn văn sau đây:
a) Với Nam Việt Để Lý Bí, lần đầu tiên Việt Nam xưng “đế một phương”. lần đầu tiên miền trung tâm Hà Nội có thành xây đắp ('thành Tô Lịch'), có chùa thờ Phật (chùa Khai Quốc – Mở Nước, nay là chùa Trấn Quốc), có một mô hình quân chủ Phật giáo, vừa giống mà lại khác Trung Hoa, cháu nối tiếp ông làm vua, xưng là Phật tử (con Phật) chứ không như vua Trung Hoa xưng là Thiên tử (con Trời).
(Trần Quốc Vượng)
b) Cùng với màu sắc là “hình”, “bóng”. Thơ Tố Hữu để lại trong kí ức độc giả rất nhiều “hình bóng”. Bài 'Bà má Hậu Giang” được khép lại bằng “bóng mà': “Nước non muốn quý ngàn yêu / Còn in bóng má sớm chiều Hậu Giang'. Trong bài “Lên Tây Bắc” có cái bóng rất kì vĩ của anh Vệ quốc quân: “Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều / Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo” ('Thơ Tố Hữu”, trang 149). Về quê mẹ Tơm, “bâng khuâng chuyện cũ'. Tố Hữu không quên: 'Đêm đêm chó sủa... làng bên động / Bóng mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn', 'Bóng mẹ ngồi trông, vọng nước non', Ông xót xa: “Ôi bóng người xưa, đã khuất rồi - Tròn đôi nấm đất trắng chân đồi' ('Thơ Tố Hữu', trang 268).
(Là Nguyên)
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 104 Tập 1 lớp 10 (Cánh Diều)
Những trích dẫn, chú thích trong đoạn trích Hê-ra-clét đi tìm táo vàng (thần thoại Hy Lạp) ở Bài 1 và đoạn trích Thăng Long - Đông Đô – Hà Nội: một hằng số văn hoá Việt Nam (Trần Quốc Vương) trong Bài 4 thuộc kiểu trích dẫn, chú thích nào”
Soạn bài Thực hành tiếng Việt trang 104 Tập 1 lớp 10 (Cánh Diều)