Bố cục Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ? (chuẩn nhất 2024) – Ngữ văn 8 Cánh diều

Bố cục Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ? Ngữ văn lớp 8 hay nhất sách Cánh diều giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ? để học tốt môn Ngữ văn 8.

1 133 lượt xem


Bố cục Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

- Bố cục của bài:

+ Phần 1 (từ đầu… niềm tự hào đó): Sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.

+ Phần 2 (tiếp theo… “Tổ quốc quyết sinh”): Bằng chứng chứng minh cho sức mạnh của đất nước Việt Nam khi trải qua các cuộc chiến tranh suốt hơn bốn thập kỉ qua.

+ Phần 3 (tiếp theo…dân tộc của mình): Nguyên nhân dẫn đến nguy cơ thụt lùi của đất nước.

+ Phần 4 (phần còn lại): Tâm thế lớn, cách nhìn nhận về đất nước.

loading...

Nội dung chính Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

Văn bản bàn về vấn đề “Việt Nam là nước nhỏ hay không nhỏ?”, qua đó giúp cho mỗi công dân Việt Nam có cái nhìn toàn diện, khách quan, chân thực nhất về vấn đề này trong xã hội ngày nay.

Ý nghĩa nhan đề Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

Đây không phải là việc tranh luận về diện tích nước ta nhỏ hay không nhỏ (so với một số quốc gia khác trên thế giới thì diện tích nước ta không nhỏ) mà vấn đề đặt ra ở đây là vị thế của nước ta trong thời kì hội nhập với thế giới, là cách nghĩ để thoát ra khỏi sự tự ti dân tộc, cho nước ta là nước nhỏ, nước nghèo, luôn lép vế trước các cường quốc trên thế giới.

Đọc tác phẩm Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

[...] Hãy đọc lại Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xung nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tổng, Nguyên mỗi bên xưng để một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Nhà bác học Lê Quý Đôn khi viết về dân tộc của mình luôn nói tới niềm tự hào “Nước Nam ta nổi tiếng là văn hiến...”, “văn vật điển chương rất đẹp, không kém gì Trung Quốc”.

Ngô Thì Nhậm đi sứ phương Bắc, lúc trở về làm bài thơ Hoản nhĩ ngâm (Mim cười mà ngâm ngợi) thốt lên niềm tự hào: “May mắn thay! Chúng ta được sinh ra ở nước Nam... chớ bảo rằng ta kém văn minh...”. Phan Thanh Giản đi sứ Tây kinh', tàu đến một cảng biển ngoại quốc, theo thông lệ phải giương Quốc kì của sứ đoàn, Phan bèn lấy tấm lụa rồi dùng son mà viết hai chữ lớn “Đại Nam” treo lên mũi tàu mà biểu trưng niềm tự hào dân tộc nơi đất khách quê người....

Những chuyện như thế trong sử sách nhiều lắm. Không có niềm tự hào ấy, chúng ta không tồn tại được. Chính sự phấn đấu để tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam đã làm nên niềm tự hào đó.

Ngót trăm năm đô hộ của thực dân Pháp là một nỗi nhục lớn của dân tộc Việt Nam sau hơn một thiên niên kỉ tự chủ, hơn mười lần đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm. Đến thế kỉ XIX, chỉ vài trăm tên lính đánh thuê đã hạ nổi thành Hà Nội, nơi có những người anh hùng như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu cầm quân. Những người anh hùng đó đã phải tự vẫn cho khỏi thẹn với núi sông. Những bài học trên ghế học trò 'Tổ tiên ta là người Gô-loa (Gaulois)' mà thực dân nhồi sọ, thảm cảnh của những người cu li Việt phải tha phương cầu thực ở những đồn điền hải ngoại và của những trai tráng người Việt sang làm bia đỡ đạn bên trời Âu trong hai cuộc đại chiến cũng như sự khốn cùng của nhân dân dưới ách áp bức của thực dân và phong kiến... đã dồn nén lòng tự ái dân tộc thành một sức mạnh phi thường khi có được ngọn cờ tụ nghĩa. Từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học,... đến Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đều thấm cái nỗi nhục mất nước để tạo nên sức vùng dậy của cả một dân tộc giành quyền làm chủ của mình.

Dân tộc ấy đã công khai tuyên bố quyền tự chủ của mình trên những nguyên lí phổ quát của nhân loại. Và dân tộc ấy đã tự chứng minh sức mạnh của mình bằng ba cuộc chiến tranh vệ quốc liên tiếp trong hơn bốn thập kỉ với biết bao nhiêu xương máu khi đã không còn con đường lựa chọn nào khác ngoài ý chí “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Nhưng điều gì khiến cho công cuộc 20 năm Đổi mới được biểu dương như những thành tựu to lớn mà có người còn sánh với những chiến công của lịch sử giữ nước, cuối cùng, vẫn không giúp chúng ta tránh được nguy cơ tụt hậu? Ai cũng biết giữ được mức tăng GDP thuộc loại nhất nhì khu vực, đặc biệt là giữ được sự ổn định về an ninh là một cố gắng rất lớn. Nhưng mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa vời. Phải tìm cho ra những lí do của sự tụt hậu mới mong thoát được nguy cơ tụt hậu.

Đương nhiên, chiến tranh luôn được viện dẫn làm lí do hàng đầu. Chiến tranh tàn phá của cải vật chất, để lại những hậu quả rất nặng nề. Chiến tranh mang lại nhiều đau thương mất mát, kể cả những di chứng lâu dài cho con người... Những lí do ấy đều thấy được, cân đong đo đếm được và trên thực tế, ta đã có nhiều thập kỉ khắc phục. Nhưng còn có một lí do mà không phải là khó thấy. Đó chính là nếp nghĩ và hành xử. [...]

Cách hành xử và tâm thế của chúng ta dường như luôn mặc cảm Việt Nam giờ đây là nước nhỏ. Không ít những phát biểu của các quan chức luôn khiến ta nghĩ rằng Tổ quốc của mình giống như những địa phương mong được xếp vào diện nghèo hay vùng sâu, vùng xa của thế giới để được hưởng những ưu tiên, trợ giúp, mà không thấy nỗi hèn nhục của một nước nghèo và tụt hậu.

Lại nhớ đến điều mà vị Đại tướng góp phần đánh thắng hai đế quốc to nhắc nhớ. “Có một thế hệ hằng ngày nhìn vết đạn của ngoại xâm trên thành Cửa Bắc để nuôi chỉ rửa sạch nỗi nhục mất nước.'. Bây giờ, nếu mỗi ngày, cùng với dự báo thời tiết, chúng ta công bố thứ hạng về trình độ phát triển cùng những món tiền nợ nước ngoài để thẩm được cải nỗi nhục tụt hậu, chúng ta mới chiến thắng nghèo hèn để vươn lên cho xứng đáng với dân tộc của mình...

Tôi đã gặp hai con người, hai nhà doanh nghiệp quyết định đặt tên cho những công trình và thương hiệu của mình bằng những quốc danh thời xa xưa. [...] Hỏi vì sao lại đặt tên như vậy, cả hai đều nhắc đến tâm thế của người xưa về niềm tự hào dân tộc, rằng chính vì niềm tự hào ấy mà ông cha ta đã để lại cho thế hệ chúng ta cả một cơ đồ, một giang sơn gấm vóc. Cả hai đều chất vấn tôi bằng một câu hỏi: “Vậy thì Việt Nam có phải là một nước nhỏ hay không?”. Và cả hai đều cho rằng, nếu tâm thể của ta nhỏ thì nước ta thành nước nhỏ, nếu chỉ bỏ mình trong những ước vọng chật hẹp thì mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu là vô vọng. Còn như tâm thế ta lớn thì dám làm cái lớn và sẽ làm cho nước ta lớn, như cha ông ta đã tư duy và hành xử.

Viết bài báo này, tôi cũng muốn bạn đọc cùng chia sẻ với câu hỏi sâu sắc: “Việt Nam là nước nhỏ hay không nhỏ?”.

loading...

Tóm tắt Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

Văn bản “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ” là bài viết được trích trong diễn đàn được báo Thanh Niên mở ra từ ngày 27/3 đến 30/6/2006 do ông Dương Trung Quốc phát biểu. Tại đây, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng, lập luận hợp lí, đầy sức thuyết phục. Thứ nhất, tác giả đề cập đến lịch sử, sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Tiếp theo, ông đưa những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, khiến đất nước đang có nguy cơ thụt lùi. Cuối cùng, Dương Trung Quốc kết lại vấn đề bằng việc mở ra tầm nhìn, cách nhìn nhận về đất nước, tác động đến người đọc với mong muốn dựng xây đất nước ngày một phát triển hơn.

Giá trị nội dung Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

- Văn bản bàn về vấn đề “Việt Nam là nước nhỏ hay không nhỏ?”, qua đó giúp cho mỗi công dân Việt Nam có cái nhìn toàn diện, khách quan, chân thực nhất về vấn đề này trong xã hội ngày nay.

Giá trị nghệ thuật Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?

- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén với dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục.

1 133 lượt xem