Tác giả tác phẩm Quê hương (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 9 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Quê hương Ngữ văn lớp 9 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 9. Mời các bạn đón xem:

1 84 lượt xem


Tác giả - Tác phẩm: Quê hương - Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo

I. Tác giả văn bản Quê hương

- Tế Hanh (1921- 2009), tên khai sinh là Trần Tế Hanh

- Quê quán: sinh ra tại một làng chài ven biển tỉnh Quảng Ngãi

- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác

+ Ông có mặt trong phong trào thơ Mới ở chặng cuối với những bài thơ mang nỗi buồn và tình yêu quê hương

+ Sau năm 1945, Tế Hanh sáng tác phục vụ cách mạng và kháng chiến

+ Ông được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật

- Phong cách sáng tác: thơ ông chân thực với cách diễn đạt bằng ngôn ngữ giản dị, tự nhiên và rất giàu hình ảnh, bình dị mà tha thiết.

Quê hương - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo

II. Đọc tác phẩm Quê hương

Bài thơ Quê hương

Chim bay dọc biển đem tin cá

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới:
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,
Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.
“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,
Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.
Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,
Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;
Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm
Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ
Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,
Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,
Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

III. Tìm hiểu văn bản Quê hương

120+ Hình ảnh quê hương Việt Nam đẹp nhất gợi tuổi thơ

1. Thể loại

- Tác phẩm Quê hương thuộc thể loại: 8 chữ.

2. Xuất xứ

- Trước đó, bài thơ được rút từ tập 'Nghẹn ngào' (1929), sau này in lại trong tập 'Hoa niên' (1945).

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

4. Bố cục đoạn trích

- Phần 1 (2 câu đầu): Giới thiệu chung về làng quê.

- Phần 2 (6 câu tiếp): Cảnh dân chài bơi thuyền ra khơi đánh cá.

- Phần 3 (8 câu tiếp): Cảnh thuyền cá về bến.

- Phần 4 (4 câu còn lại): Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương.

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ đã phác họa sinh động khung cảnh cùng không khí lao động của người dân ở làng chài ven biển. Từ đó, nhà thơ bộc lộ tình cảm yêu mến, nhớ thương quê hương tha thiết.

6. Giá trị nghệ thuật

- Giọng thơ sâu lắng, thiết tha.

- Sử dụng các hình ảnh gần gũi, thân thuộc.

- Sử dụng các biện pháp tu từ: so sánh 'Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng', nhân hóa 'Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm'...

IV. Tìm hiểu chi tiết văn bản Quê hương

1. Giới thiệu về làng chài

- Bằng lời thơ mộc mạc, giản dị, hai câu thơ đầu đã trực tiếp mở ra cảnh:

+ Quê hương của tác giả làm nghề chài lưới.

+ Làng của tác giả cách biển nửa ngày sông.

-> Lời giới thiệu toát lên từ tấm lòng tự hào, yêu mến quê hương.

Quê hương - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo

2. Cảnh người dân ra khơi đánh cá

- Thời gian: vào buổi sáng 'khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng' -> mở ra cảnh sắc tươi đẹp của một ngày lao động.

- Người lao động: 'dân trai tráng' -> những người có vóc dáng khỏe khoắn, mạnh mẽ.

- Phương tiện đánh bắt: chiếc thuyền: 'như con tuấn mã', 'phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang' -> tác giả sử dụng biện pháp so sánh, động từ mạnh để khắc họa khí thế lớn lao của con thuyền.

- Hình ảnh cánh buồm được ví như 'mảnh hồn làng' -> gợi sự kì vĩ, thiêng liêng của cánh buồm. cánh buồm trở thành biểu tượng linh hồn của làng chài nơi đây.

=> Tác giả đã phác họa sống động bức tranh thiên nhiên và khung cảnh lao động hăng say, hứng khởi của người dân.

3. Cảnh người dân đánh bắt trở về

- Thời gian: ngày hôm sau.

- Khung cảnh làng chài:

+ Sôi động 'ồn ào trên bến đỗ'.

+ Người dân vui mừng, 'tấp nập đón ghe về'.

- Tất cả mọi người đều chung niềm phấn khởi. Họ không ngớt lời cảm tạ trời đất vì 'biển lặng cá đầy ghe'.

- Người lao động tiếp tục được gợi nhắc qua hình ảnh vừa chân thực vừa lãng mạn 'làn da ngăm rám nắng', 'Cả thân hình nồng thở vị xa xăm' -> tầm vóc phi thường, khỏe khoắn của con người.

- Biện pháp nhân hóa 'Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm': gợi ra hình ảnh con thuyền sau một ngày lao động vất vả -> con thuyền cũng giống như một cơ thể sống, gắn bó mật thiết với đời sống lao động của người dân nơi đây.

=> Tám câu thơ đã mở ra không khí vui tươi, nhộn nhịp của làng chài sau một ngày lao động hăng hái, vất vả. Đồng thời, tô đậm vẻ đẹp vạm vỡ, khỏe mạnh của con người lao động.

4. Nỗi nhớ làng chài, nhớ quê hương da diết

- Dù đang ở nơi xa nhưng nhà thơ vẫn luôn hướng về quê hương yêu dấu 'nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ'.

- Tác giả ghi nhớ từng chi tiết, sự vật: màu nước trong xanh, những con cá bạc, chiếc buồm vôi, hình ảnh con thuyền rẽ sóng ra khơi hay mùi vị biển cả quê hương.

=> Tình cảm yêu mến, gắn bó sâu nặng với làng chài -> nỗi nhớ thương quê hương da diết.

V. Các bài văn mẫu

Quê hương

Đề bài: Phân tích bài Quê Hương

Bài tham khảo 1

Quê hương là nguồn cảm hứng bất tận của nhiều nhà thơ Việt Nam và đặc biệt là của Tế Hanh - một tác giả có mặt trong phong trào Thơ mới và sau cách mạng vẫn tiếp tục sáng tác dồi dào. Ông được biết đến với những bài thơ viết về quê hương miền Nam thân yêu với tình cảm chân thành và rất sâu lắng. Người ta có thể thấy trong thơ ông hơi thở nồng nàn của người dân xứ biển, hay một dòng sông đầy nắng những buổi chiều gắn liền với tình yêu quê hương sâu nặng của nhà thơ.

Bài thơ “Quê hương” là một kỉ niệm tuổi thơ sâu sắc, là tác phẩm mở đầu cho cảm hứng về quê hương trong thơ Tế Hanh, được viết bằng tất cả tình yêu đối với chất thơ mạnh mẽ, hào hùng. Bài thơ “Quê hương” được sáng tác năm 1939 lúc Tế Hanh đang học tại Huế trong nỗi nhớ quê hương tha thiết. Ông đã vẽ ra 1 bức tranh tươi sáng, sinh động về 1 làng quê miền biển với những người con làng chài khỏe khoắn, chan chứa nhựa sống bằng giọng thơ gợi cảm, hào hùng, hình ảnh phong phú và ý nghĩa.  

Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ kết hợp cả hai kiểu vần liên tục và vần ôm, phần nào thể hiện nhịp sống của một làng chài ven biển:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bủa vây cách biển nửa ngày sông

Khi trời trong, gió nhẹ, ban mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Nếu như quê hương trong tâm trí những người con đất Việt là mái đình, là gốc đa, giếng nước sân đình, là bát canh rau muống cà dầm tương thì quê hương trong tâm trí Tế Hanh là một làng chài trên một cù lao giữa sông và biển, làng chài dập dềnh sóng vỗ. Cảnh làng quê như mở ra trước mắt ta thật sinh động với “Trời trong - gió nhẹ - sớm mai hồng”. Không gian như kéo dài ra, bầu trời như cao hơn, tràn ngập ánh sáng. Bầu trời trong xanh, gió hiu hiu, ánh nắng hồng nhẹ nhàng chạm lên những giọt bình minh đang đến báo hiệu một ngày mới lại bắt đầu, một ngày mới tràn đầy hy vọng, Một ngày mới với đầy ắp sự hăng hái, phấn khởi của biết bao người trên những con thuyền đã căng buồm ra biển khơi: 

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang 

Nếu như ở trên là tả cảnh thì đây là câu thơ vẽ lên một hình ảnh lao động sôi nổi, năng động. Con thuyền được so sánh với 'con tuấn mã' phi nước đại trên thảo nguyên càng làm cho câu thơ mạnh mẽ hơn, thể hiện niềm hân hoan, phấn khởi của người dân chài. Câu thơ còn sử dụng các động từ mạnh như “hăng”, “phăng”, “vượt” thể hiện một cách ấn tượng khí thế hiên ngang, dữ dội của con thuyền, toát lên sức sống căng tràn, hừng hực khí thế. Vượt qua sóng gió. Đánh bại biển khơi. Con thuyền ra khơi với một tư thế vô cùng kiêu hãnh và oai phong hùng tráng:

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả liên tưởng đến “hồn người”. Phải là một tâm hồn nhạy cảm trước cảnh vật, một tấm lòng gắn bó với quê hương làng quê, Tế Hanh mới có thể viết được như vậy. Cánh buồm trắng vốn là hình ảnh quen thuộc nay đã trở nên bao la trong thiên nhiên. Cánh buồm trắng đón gió vượt trùng khơi như tâm hồn con người hướng về một tương lai tươi sáng. Có lẽ nhà thơ chợt nhận ra rằng hồn quê hương đang ở trong cánh buồm. Hình ảnh trong đoạn thơ trên vừa nên thơ, vừa hùng vĩ, vừa miêu tả chính xác hình thức, vừa gợi được cái hồn của sự vật.

Ta thấy phép so sánh ở đây không chỉ làm cho sự miêu tả thêm sinh động. diệu kỳ mà còn gợi ra một vẻ đẹp bay bổng đầy trang trọng. Ấy chính là sự tinh tế của nhà thơ. Cũng có thể hiểu rõ hơn qua câu thơ này là bao nhiêu tình cảm thiêng liêng, bao nhiêu hy vọng mưu sinh của ngư dân đã gửi gắm vào cánh buồm no gió. Dấu chấm lửng ở cuối câu thơ cho ta ấn tượng về một không gian mở ra đến vô cùng, vô tận, giữa mênh mông sóng nước, hình ảnh những con người trên con thuyền nhỏ bé không hề đơn độc một mình, mà trái lại như thấy mình chủ động, làm chủ bản chất của chính mình.

Toàn bộ bài thơ ngập tràn khung cảnh quê hương và những người dân chài ra khơi đánh cá, thể hiện một cuộc sống tấp nập người sôi động, niềm phấn khởi, hy vọng và lạc quan trong ánh mắt của mỗi ngư dân. Sự mong đợi, niềm vui công việc vào ngày mới với nhiều kết quả tốt tiếp tục được thể hiện qua khổ thơ tiếp theo:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ ơn trời, biển lặng, cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng. 

Các tính từ “ồn ào”, “tấp nập” toát lên vẻ rộn ràng, tấp nập của những cánh buồm căng buồm đón đoàn thuyền đánh cá trở về. Người đọc như được thực sự sống trong bầu không khí ấy, lắng nghe tấm lòng cảm tạ trời đất đã cho sóng yên, biển lặng để ngư dân trở về bình an đầy thuyền, thấy “những con cá tươi ngon thân bạc trắng”. Tế Hanh không mô tả tỉ mỉ công việc đánh cá của người ngư dân nhưng bằng lời thơ của mình, người ta có thể dễ dàng hình dung trong thơ của ông hình ảnh những người lao động không biết mệt mỏi để gặt hái những thành tựu trước biển khơi. Sau chuyến ra khơi, hình ảnh đoàn thuyền và mọi người trở về nơi nghỉ ngơi:

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Có thể nói đây là những câu thơ hay nhất, tinh tế nhất của bài thơ. Với bút pháp tả thực, hình ảnh “làn da ngăm rám nắng” dường như đã để lại ấn tượng rất sâu sắc về vẻ đẹp rắn rỏi của người ngư chài bám biển, thì câu thơ sau lại được miêu tả với cảm giác rất lãng mạn “ Cả thân hình nồng thở vị xa xăm”. Thân hình vạm vỡ của người đánh cá là thấm đượm hơi thở của biển, vị mặn mòi của đại dương bao la. Nét đặc sắc của đoạn thơ là gợi được cả tâm hồn và tầm vóc của con người xứ biển, hai câu thơ tả con thuyền nằm bất động trên bến cũng là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo.

Nhà thơ không chỉ nhìn thấy con thuyền bất động trên bến mà còn thấy cả sự mệt mỏi của nó. Như một người đánh cá, con thuyền có vị mặn của nước biển, con thuyền như đang lắng nghe vị muối của đại dương thấm vào từng thớ thịt của thân tàu. Con thuyền trở nên chuyển động hơn, nó không còn là vật vô tri vô giác mà đã trở thành người bạn của ngư dân.

Quả thực, không phải người con làng chài thì sao có thể viết được hay như thế, tình tứ như thế. Những câu thơ trải ra như thế khi tâm hồn Tế Hanh hết mình tan vào cảnh vật để lắng nghe. Có tiếng gió nhè nhẹ trong ngày mới, có tiếng sóng xô bờ bạc trắng, có tiếng chợ cá và những âm thanh lắng đọng trong từng thớ gỗ con thuyền. Có lẽ cái chất mặn mòi này cũng đã thấm sâu vào da thịt, vào tâm hồn nhà thơ để trở thành một nỗi ám ảnh đầy bâng khuâng diệu kỳ. Cái tinh tế và cái tài của Tế Hanh là ở chỗ ông “nghe thấy cả những điều không hình sắc, không âm thanh' như một ‘mảnh hồn làng’ trên ‘cánh buồm giương’…

Thơ Tế Hanh là một thế giới rất gần, thường ta chỉ nhìn thấy nó một cách mơ hồ, thế giới cảm xúc mà ta đã âm thầm trao cho cảnh vật: sự mệt mỏi và say sưa của con thuyền trở về bến…”Nói lên từ đáy lòng từ tấm lòng' là khi nhà thơ bày tỏ tình cảm của người con xa quê, hướng về quê hương, hướng về đất nước:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc thuyền vôi

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá 

Nếu không có những câu thơ này, có lẽ chúng ta sẽ không biết nhà thơ đang ở xa quê hương. Người đọc có thể nhìn thấy một cảnh tượng miền biển rất sống động trước mắt, nhưng thực chất hình ảnh thơ lại được viết ra từ tâm trí xa xôi của một cậu học trò - nhà thơ trong quá khứ. Có thể nhận ra rằng quê hương luôn trong tiềm thức của nhà thơ, quê hương luôn hiện hữu trong từng suy nghĩ và cảm xúc của Tế Hanh bất kể ở đâu, thời điểm nào.

Nỗi nhớ quê hương da diết biến thành lời nói rất đỗi giản dị: “Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Quê hương là mùi biển mặn, quê hương là làn nước trong xanh, màu cá bạc, cánh buồm vôi. Màu sắc của quê hương là màu sắc sống động nhất, gần gũi nhất. Tế Hanh thích những hương vị đặc trưng của quê hương đầy quyến rũ và ngọt ngào.

Thơ Tế Hanh bình dị như chính con người ông, bình dị như người dân quê hương miền biển - khỏe khoắn và sâu lắng. Từ hình ảnh thơ hiện lên một hình tượng thiên nhiên trong sáng, thơ mộng và hùng vĩ về cuộc sống lao động hàng ngày của con người. Nếu như người ta đã quen liên tưởng giữa quê hương và đồng bằng, thì Quê hương của Tế Hanh như thổi một làn sóng biển nồng nàn vào chủ đề tình yêu quê hương đất nước của phong trào thơ mới Việt Nam thời kỳ này. Bài thơ để lại ấn tượng khó phai về một làng chài cách biển nửa ngày đường bên dòng sông lấp lánh sóng và nắng vàng. Hồn sông biển ấy đã là nguồn cảm hứng cho Tế Hanh từ thuở 'hoa niên” đến những ngày tập kết ngoài Bắc. Vẫn còn đó tình quê hương sâu lắng, ấm áp của người con xa quê:

Tôi dang tay ôm nước vào lòng

Sông mở nước ôm tôi vào dạ

Chúng tôi lớn lên mỗi người mỗi ngả

Kẻ sớm hôm chài lưới ven sông

Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng

Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến

Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển

Vẫn trở về lưu luyến bến sông

(Nhớ con sông quê hương – 1956)

Bằng một tâm hồn giản dị, Tế Hanh xuất hiện trong phong trào Thơ mới nhưng không hề có những suy nghĩ nhàm chán về cuộc đời, trốn chạy thực tại, đắm mình trong cái tôi riêng tư như nhiều nhà thơ lúc bấy giờ. Thơ Tế Hanh là hồn thơ hòa quyện với hồn nhân dân, hồn dân tộc, “cánh buồm giương to như mảnh hồn làng”. “Quê hương” - hai tiếng thân thương, thiêng liêng nhất, trong sáng nhất, xuất hiện trong thơ của Tế Hanh một cách rất giản dị mà thân thương. Quê hương Quảng Ngãi đọng trong tâm hồn người con xa xứ - Tế Hanh - luôn hiện lên với vẻ cường tráng, tự hào và khát khao. Bài thơ có giọng điệu khỏe khoắn, hình ảnh sinh động gây hứng thú cho người đọc, ngôn ngữ hùng hồn gợi một khung cảnh quê hương “rất Tế Hanh”. 'Quê hương' của Tế Hanh đã thực sự sống trong lòng người đọc, sống trong lòng dân tộc, sống hòa cùng vị mặn mòi của biển khơi.

 

Bài tham khảo 2

Tế Hanh sinh năm 1921 tại Quảng Ngãi. Bài thơ “Quê hương” được viết khi ông đang học tại Huế, lúc mới 18 tuổi. Bài thơ có 20 câu, mỗi câu có 8 chữ. Lời thơ trong sáng, hình ảnh sáng tạo, cảm xúc nồng hậu thiết tha. Tình yêu và lòng thương nhớ quê hương của người con xa quê được thể hiện qua những vần thơ đậm đà và giàu hình ảnh.

Hai câu thơ đầu với hai chữ “làng tôi” cho thấy niềm tự hào của tác giả về làng quê của mình. Đó là một làng chài ven biển miền Trung, có sông nước bao la vây quanh. Làng cách xa biển “nửa ngày sông”, một cách tính độ dài dân dã. Chữ vốn rất có ý nghĩa trong việc gợi lên một nghề truyền thống lâu đời và chính yếu của người dân quê hương.

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.

Sáu câu thơ tiếp theo nói về cảnh ra khơi đánh cá của người dân làng chài. Đó là những hình ảnh đẹp, thơ mộng và mạnh mẽ trong những buổi sáng khi ánh ban mai hừng lên. Các tính từ được dùng rất chọn lọc trong đoạn thơ này đã tạo nên những hình ảnh rất đẹp: trong, nhẹ, hồng. Giọng thơ nhỏ nhẹ, tâm tình, như có tiếng reo:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Niềm vui đi chinh phục biển cả và khí thế ra khơi của bà con dân chài được thể hiện qua các hình ảnh về con thuyền, cánh buồm và mái chèo. Chiếc thuyền được ví với con tuấn mã phi nhanh đầy hăng hái. Mái chèo như lưỡi kiếm khổng lồ chém xuống mặt nước. Cánh buồm trắng to như mảnh hồn làng, cách ví von rất sáng tạo nhằm nói lên khí thế lao động và khát vọng về ấm no hạnh phúc của người dân làng chài.

Câu thơ Rướn thân trắng bao la thâu góp gió là một hình ảnh đẹp về cánh buồm to lớn đang căng gió ra khơi xa. Các từ ngữ hăng, phăng, vượt, rướn, thâu góp đã làm nổi bật sức mạnh, niềm tin tưởng tự hào vào khí thế ra khơi của đoàn thuyền đánh cá:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Hai khổ thơ 8 câu tả cảnh làng chài khi những đoàn thuyền đánh cá quay về bến. Cảnh ồn ào tấp nập của làng chài dã được tác giả khắc họa rất sinh động. Các hình ảnh cá đầy ghe, những con cá tươi ngon thân bạc trắng đã cho thấy một chuyến ra khơi đầy may mắn và bội thu.

Ba tiếng nhờ ơn trời là lời cảm tạ thiên nhiên đã mang lại cho người dân những chuyến ra khơi bình yên cũng như cho con người một nguồn sống. Trời đã cho biển lặng, sóng êm, biển cho nhiều tôm cá, tất cả tạo cho tác giả một niềm hi vọng về cuộc sống tốt đẹp của người dân làng chài. Những câu thơ trong phần này đầy màu sắc và hương vị biển:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

Nhờ yên trời biển lặng cá đầy ghe

Những con cá tươi ngon thân trắng bạc

Từ nhỏ có lẽ tác giả đã sống với quê hương, sống với những lần đoàn thuyền ra khơi đánh cá và trở về nên mới có được những vần thơ thật sâu sắc và giàu hình ảnh như thế. Dù ở xa quê hương nhưng tác giả vẫn diễn tả như thể mình đang chứng kiến cảnh tượng ấy diễn ra. Chính tình yêu quê hương đã giúp tác giả có được những cảm xúc như thế. Yêu quê hương là yêu mến những chàng trai làng cường tráng có làn da ngăm rám nắng, được tôi luyện trong lao động, trong vị mặn của nước biển quê hương.

'Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.' Yêu làng chài là yêu những con thuyền sau một chuyến ra khơi vất vả, trở về nằm ngủ im lìm trên bến. Con thuyền trong bài thơ đã được nhân hóa nhằm gợi cảm cuộc sống lao động vất vả mà yên vui của người dân:

Chiếc thuyền im bến mới trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Các chữ im, mỏi, nằm, nghe, thấm dần rất gợi cảm và biểu cảm. Sự chuyển đổi cảm giác tài tình đã tạo nên những vần thơ giàu cảm xúc. Khổ thơ cuối nói lên nỗi nhớ nhung làng chài quê hương của người con xa quê. Nỗi nhớ ấy được diễn tả qua điệp khúc “nhớ” trong các câu thơ:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!

Nhớ quê hương là nhớ màu xanh của nước, màu bạc tươi ngon của cá, màu vôi bạc phếch của cánh buồm, là nhớ con thuyền làng chài rẽ sóng ra khơi, là nhớ cái mùi nồng mặn quá trong hương vị của biển. Chữ thoáng trong câu vừa gợi tả hình bóng con thuyền ra khơi mờ dần nơi cuối biển vừa thể hiện niềm tưởng nhớ trong hoài niệm của tác giả.

Tố Hữu đã ca ngợi thơ Tế Hanh là những câu hát yêu thương, còn nhà thơ Xuân Diệu thì cho rằng nó như một dòng suối nhỏ nhưng là nguồn tình cảm trong lành và bền vững. Đọc bài Quê hương của Tế Hanh ta cảm thấy yêu thơ và tâm hồn thơ của Tế Hanh. Với ông những cảnh sắc về bầu trời, dòng sông, cánh buồm, bến đỗ, con cá... là màu sắc, là hương vị là hình bóng thân yêu của quê nhà.

Hình tượng thơ của Tế Hanh tuy bình dị mà rất có tình. Những nét nhân hóa trong bài thơ Quê hương rất sáng tạo và hấp dẫn người đọc. Đó chính là điểm nhấn giúp bài thơ giàu tình cảm và cảm xúc.

1 84 lượt xem