Tác giả tác phẩm Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 9 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ Ngữ văn lớp 9 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 9. Mời các bạn đón xem:

1 105 lượt xem


Tác giả - Tác phẩm: Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo

I. Tác giả tác phẩm Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ

- Chu Văn Sơn sinh năm 1962, mất năm 2019.

- Quê quán: Đông Hương, Thành phố Thanh Hóa, Tỉnh Thanh Hóa

- Cuộc đời:

+ Ông là giảng viên bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, khoa Ngữ văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội từ năm 1986. Trước đó, ông từng giảng dạy tại Trường ĐH Quy Nhơn (Bình Định).

+ Tiến sĩ Chu Văn Sơn được biết đến như một nhà sư phạm có lối giảng dạy rất cuốn hút học sinh, ông còn là một nhà văn với nhiều sáng tác, nhưng sự nghiệp độc đáo của ông là ở mảng nghiên cứu phê bình văn học.

- Các tác phẩm chính của ông: Ba đỉnh cao thơ mới: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử (2005); Thơ – điệu hồn và cấu trúc (2007); Tự tình cùng cái đẹp (2019).

- Ngoài ra, ông còn là tác giả của một số sách và giáo trình phục vụ đào tạo đại học và sau đại học như: Một vài chương giáo trình về Huy Cận, Nguyễn Đình Thi trong Giáo trình Văn học Việt Nam thế kỉ 10.

- TS. Chu Văn Sơn được đánh giá là một người thầy, một nhà văn tài hoa, một nhà phê bình văn học sắc sảo. Trong những bài phê bình, ông có nhiều phát hiện tinh tế, sâu sắc, có cách viết bay bổng nghệ sĩ, và một giọng văn riêng, vừa gần gũi vừa thanh lịch.

Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo

II. Tìm hiểu tác phẩm Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ

1. Thể loại

- Tác phẩm Về hình tượng bà Tú trong bài “Thương vợ” thuộc thể loại: văn bản nghị luận.

2. Xuất xứ

- Văn bản được in trong Tác phẩm văn học trong nhà trường – những vấn đề trao đổi, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam, 2012.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: nghị luận.

4. Bố cục đoạn trích

- Phần 1 (từ đầu đến số phận của bà) : Hình tượng bà Tú thuộc về kiểu gia đình nhà nho theo ảnh hưởng Nho giáo.

- Phần 2 (tiếp theo đến...hay nhất của bài thơ): Hình tượng bà Tú trong hai câu đề.

- Phần 3 (tiếp theo đến... lời chao giọng chát): Hình tượng bà Tú trong hai câu thực.

- Phần 4 (đoạn còn lại): Hình tượng bà Tú trong hai câu luận.

5. Giá trị nội dung

- Văn bản “Về hình tượng bà Tú trong bài “Thương vợ”” của tác giả Chu Văn Sơn là bài viết nghị luận phân tích rất sâu sắc và giàu sức thuyết phục về hình tượng bà Tú. Tác giả bài viết đã tập trung khắc họa hình tượng bà Tú trên các phương diện như: Hoàn cảnh gia đình; Bà Tú trong mối quan hệ với xã hội và Bà Tú trong mối quan hệ với cộng đồng. Thông qua những khía cạnh ấy, hình tượng bà Tú hiện lên chân thực là một người phụ nữ tảo tần, tháo vát, chịu thương chịu khó, yêu chồng thương con và hết lòng hi sinh vì gia đình dù cuộc đời mình vất vả, lênh đênh. 

6. Giá trị nghệ thuật

- Lập luận sắc bén, dẫn chững, lí lẽ cụ thể, logic.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ

1. Cách trình bày vấn đề trong văn bản

- Cách trình bày vấn đề khách quan: Tác giả bài viết đưa ra thông tin về nền tảng gia đình của bà Tú và hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Đây đều là những thông tin khách quan tạo cơ sở cho lập luận sau đó.

- Cách trình bày vấn đề chủ quan: Từ thông tin về nền tảng gia đình và hoàn cảnh lịch sử, tác giả bài viết đã đưa ra những nhận xét, đánh giá chủ quan của mình và thể hiện sự đồng cảm, xót thương về hoàn cảnh của bà Tú: vì nền tảng gia đình cùng hoàn cảnh xã hội ấy mà bà Tú buộc phải bươn chải mưu sinh, không được hưởng cuộc sống an nhàn, thảnh thơi.

2. Luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong văn bản

- Mối quan hệ giữa luận đề, luận điểm, lí lẽ, bằng chứng trong văn bản:

Về hình tượng bà Tú trong bài thơ Thương vợ - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 9 Chân trời sáng tạo

IV. Các bài văn mẫu

Hình ảnh bà Tú quanh năm buôn bán, vất vả

Đề bài: Phân tích hình ảnh bà Tú

Bài tham khảo 1

Trần Tế Xương là một nhà thơ trào phúng nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông đã dùng ngòi bút sắc bén của mình để đả kích, trào lộng một cách chua cay, sâu sắc về xã hội nửa tây nửa ta, về nạn tham nhũng, thi cử. Nét đặc biệt nhất là ông còn viết những vần thơ trào lộng chính mình. Trong bài thơ “Thương vợ”, Tú Xương không chỉ thể hiện tình thương sâu nặng với vợ thông qua sự thấu hiểu nỗi vất vả, gian lao của bà Tú mà còn châm biếm chính mình vì làm thân nam nhi nhưng lại làm gánh nặng cho vợ con.

Đọc thơ Trần Tế Xương ta có thể dễ dàng bắt gặp những vần thơ trào lộng, châm biếm về chính bản thân nhà thơ. Bài thơ “Thương vợ” cũng là một tác phẩm như vậy. Đọc thơ, ta đồng cảm sâu sắc với tình thương mà Tú Xương dành cho vợ, cũng cảm nhận được cái “tôi” đầy ý thức, tình nghĩa của Trần Tế Xương. Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ ra không gian lao động đầy lam lũ, vất vả của bà Tú:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông
Nuôi đủ năm con với một chồng”

“Quanh năm” gợi ra cái dằng dặc của thời gian sống cũng gợi ra cái đều đặn của hành động, mang theo được cả những nỗi gian truân, vất vả mà bà Tú phải gánh vác “buôn bán ở mom sông”. “Buôn bán ở mom sông” gợi ra cái không gian nhỏ hẹp nhưng đầy bát nháo, xô bồ của những người buôn, kẻ bán. Trong cái không gian xô bồ, chật hẹp ấy, hình ảnh bà Tú hiện lên thật khiến cho người đọc phải xót xa. Trong quan niệm của người Phương Đông, người phụ nữ ở trong nhà là “an”, ra ngoài là bất an, người phụ nữ được sống trong sự chở che, yêu thương của người chồng là an, phải sống trong sự xô bồ của cuộc sống “con buôn” là vô cùng gian nan, khổ cực.

Bà Tú quanh năm vất vả với công việc buôn bán bởi trách nhiệm cơm áo gạo tiền để duy trì cuộc sống hàng ngày, cũng là bởi trên vai gánh nặng trách nhiệm chồng con: “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Ở đây, Tế Xương đã gộp mình vào những đứa con, là một trong những gánh nặng mà bà Tú phải gánh vác, nhà thơ tự trách mình vì sống là thân nam nhi, không những không làm chỗ dựa được cho vợ mà còn chất chồng thêm những gian khổ nên người phụ nữ ấy.

Hình ảnh bà Tú tiếp tục được Tế Xương khắc họa bằng những gian khổ, bằng tình thương sâu sắc dành cho vợ nhưng đồng thời cũng thể hiện sự bất lực của bản thân khi không thể làm gì hơn để giúp vợ:

“Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

“Lặn lội”, “eo sèo” thể hiện được cuộc sống nổi trôi, những thăng trầm trong công việc bán buôn. Hình ảnh con cò thường là hình ảnh biểu tượng cho những người phụ nữ. Ở đây, nhà thơ dùng từ “thân cò” để nói về hình dáng mỏng manh, đầy khổ cực của bà Tú trong công việc, vừa thể hiện được sự xót xa, đau đớn khi chứng kiến sự cực nhọc của người vợ, nhất là khi công việc buôn bán không thuận lợi, nhiều khó khăn “quãng vắng”, “buổi đò đông”.

“Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công”

Nếu những câu thơ trên, Trần Tế Xương nói về công việc buôn bán đầy cực nhọc cũng như nỗi gian truân, vất vả của bà Tú thì đến câu thơ này, nhà văn nhấn mạnh đến những phẩm chất tốt đẹp của vợ mình. Đó chính là sự hi sinh vô điều kiện vì chồng con. Vất vả là thế, cực nhọc là thế nhưng bà Tú vẫn không hề “quản công”, không một lời than trách mà coi nó là trách nhiệm của mình “âu đành phận” vì con, vì chồng “một duyên, hai nợ”. Nhấn mạnh đến sự hi sinh, tấm lòng vĩ đại của bà Tú, Tế Xương đã sử dụng đến hình ảnh “năm nắng mười mưa” để làm nổi bật lên vẻ đẹp đức hạnh ấy.

Càng thương vợ bao nhiêu thì Tế Xương càng tự trách mình bấy nhiêu, vì làm chồng mà không giúp được gì cho vợ:

“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc
Có chồng hờ hững cũng như không”

Tế Xương đã dùng những ngôn ngữ thông tục để nói về sự bạc bẽo của cuộc đời, về sự trớ trêu của hoàn cảnh “cha mẹ thói đời ăn ở bạc”. Cất tiếng “chửi” đời cũng là điểm nhấn để Tế Xương tự giễu chính bản thân mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Hận thói bạc bẽo của cuộc đời bao nhiêu thì ông hận chính mình bấy nhiêu. Câu thơ thể hiện sự thương vợ song cũng tự ý thức về trách nhiệm của chính mình, Tế Xương cho rằng ông đã không hoàn thành được trách nhiệm, bổn phận của một người chồng, không những vậy còn làm tăng thêm gánh nặng cho vợ. Ông trào lộng mình như cách nói tiếng thương cảm chân thành với người vợ của mình “có chồng cũng như không”.

Như vậy, qua bài thơ “Thương vợ” của Trần Tế Xương, hình ảnh bà Tú hiện lên với bao vẻ cực nhọc, đáng thương song cũng mang đầy vẻ đẹp của phẩm chất, đạo đức. Không thể không nhắc tới ở đây chính là hình ảnh tự họa của chính nhà thơ, tuy Tế Xương trách mình, hận mình song độc giả cũng cảm nhận được tấm lòng thương vợ sâu sắc, ở sự nghiêm khắc với bản thân. Đây là điều mà không phải ai cũng làm được. Nên vậy, hình ảnh Tú Xương hiện lên vẫn rất đáng trân trọng.

Bài tham khảo 2

Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho vợ.

Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để kiếm sống nuôi gia đình. Cái gian truân khó nhọc được cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian ven sông, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn, tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: Một gia đình với năm con và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trở thành một mối bận tâm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đủ làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con.

Thế mới biết cuộc sống hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.

Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cần mẫn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chỉ, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nề hà khó khăn nguy hiểm, không quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chỉ diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng, cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu:

'Lặn lội thân cò khi quãng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.'

Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh 'lặn lội thân cò', Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.

Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình: nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thốn như vậy thì quả là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này.

Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng, một duyên hai nợ thì bà Tú vẫn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình - Năm nắng mười mưa dám quản công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.

Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành một hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.

1 105 lượt xem