Nội dung chính Đi lấy mật (chuẩn nhất 2024) – Ngữ văn 7 kết nối tri thức

Nội dung chính Đi lấy mật Ngữ văn lớp 7 sách Kết nối tri thức chính xác nhất giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Đi lấy mật để học tốt môn Ngữ văn 7.

1 91 lượt xem


Nội dung chính Đi lấy mật - Ngữ văn lớp 7 Kết nối tri thức

Bài giảng Ngữ văn 7 Đi lấy mật - Kết nối tri thức

A. Nội dung chính Đi lấy mật

Văn bản Đi lấy mật kể về câu chuyện 3 cha con Cò An đi vào rừng lấy mật, qua đó tác giả bật mí cho chúng ta về cách làm tổ cho loài ong mật. 

B. Bố cục Đi lấy mật

Gồm 3 phần:

+ Phần 1: Từ đầu đến “không thể nào nghe được”: Suy nghĩ của An khi cùng tía nuôi và An đi lấy mật.

+ Phần 2: Tiếp theo đến “cây tràm thấp kia”: Cảnh sắc đất rừng phương Nam hiện lên trên đường đi lấy mật.

+ Phần 3: Còn lại: Cách “thuần hóa” ong rừng khác biệt của người dân vùng U Minh.

C. Tóm tắt Đi lấy mật

Tóm tắt Đi lấy mật (mẫu 1)

An cùng Cò theo tía nuôi vào rừng lấy mật. Cậu đã được ngắm nhìn cảnh sắc núi rừng rộng lớn. An được Cò giảng giải cho cách xem ong mật. Khi trở về, má nuôi đã kể cho An nghe cách người ta làm kèo ong - một cách “thuần hóa” ong rất đặc biệt của người dân vùng đất U Minh.

Tóm tắt Đi lấy mật (mẫu 2)

Truyện kể về một lần An cùng với Cò theo tía nuôi đi lấy mật. Trên đường đi, An cảm thấy núi rừng thật đẹp. Tía nuôi đi trước dẫn đường, An và Cò theo sau. Khi An thấm mệt, tía nuôi đề nghị sẽ nghỉ ngơi, chờ An hết mệt rồi mới đi tiếp. Cò đã chỉ cho An cách xem đàn ong mật. Sau đó, họ tiếp tục đi lấy mật và thu hoạch được rất nhiều. Họ đi tới một cái trảng rộng, nhìn thấy biết bao là chim. An vô cùng thích thú, nhưng khi nghe Cò nói đến “sân chim”, cậu lại im lặng vì từ ái nghĩ nếu cái gì cũng hỏi thì Cò sẽ khinh mình dốt. Khi bắt gặp một kèo ong, An nhớ lại lời má dạy về cách xây kèo. Người dân vùng đất U Minh có một cách “thuần hóa” ong rất đặc biệt.

D. Đọc tác phẩm Đi lấy mật

Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Trời không gió, nhưng không khí vẫn mát lạnh. Cai lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh. Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút óng ánh trên những đầu hoa tràm rung rung, khiến ta nhìn cái gì cũng có cảm giác như là nó bao quy một lớp thủy tinh.

Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lủng lẳng chiếc túi [...], lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc. Lâu lâu, ông vung tay lên một cái, đưa con dao rừng rất sắc phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở ffaauf lưỡi dao dài có đến sáu bảy tấc ấy lôi phăng nhánh gai chắn đường vứt ra một bên để lấy lối đi. Thằng Cò đội cái thúng to tướng, trong thủng đựng một vỏ nước, mấy gói cơm nắm và cái áo ướt mồ hôi nó vừa cởi ra cuộn lại, trên thủng úp chiếc nón lá rách. Tôi đã chen vào giữa, quảy tòn ten một cái gùi bé mà mà nuôi tôi đã bơi xuồng đi mượn của nhà ai ngoài xóm bìa rừng từ chiều hôm qua. Con Luốc chạy tung tăng sục sạo trong các bụi cây.

Lần đầu tiên tôi theo tia nuôi tôi và thẳng Cỏ đi “ăn ong” đây! Mấy hôm trước, má nuôi tôi đã kể tỉ mỉ cho tôi nghe cách gác kèo ong thế nào, nhưng tôi vẫn chưa hình dung được “ăn ong” ra sao. Những điều má nuôi tôi kể, trong các sách giáo khoa không thấy nói. Khoa học tự nhiên ở trường chỉ mới cho tôi một khái niệm chung chung về xã hội loài ong, về những lợi ích của ong, đại khái vậy thôi. Hiển nhiên tử những thời xa xôi thuở con người ăn lông ở lỗ cho đến ngày nay, người ta vẫn đi tìm lấy mật rừng bằng cách theo dấu đường bay của những con ong về tổ. Người ta phải khó nhọc lắm mới đưa được con ong rừng về nuôi thành con ong nhà, vì như thế, việc lấy mật sẽ dễ dàng và bảo đảm hơn.

Trong kho tàng kinh nghiệm của những nhà nuôi ong trên thế giới ghi chép trong các sách vở mà tôi được nghe thầy giáo tôi kể, không thấy có nơi nào nói đến việc lấy mật bằng cách gác kèo như má nuôi tôi đã bảo cho tôi nghe vừa rồi.

- Thôi, dừng lại nghỉ một lát. Bao giờ thằng An đỡ mệt, ăn cơm xong hẵng đi! - Tía nuôi tôi ra lệnh cho chúng tôi như vậy.

Qủa là đã mệt thật. Tía nuôi tôi chỉ nghe tôi thở đằng sau lưng ông thôi mà biết chứ ông có quay lại nhìn tôi đâu! Chúng tôi đã bơi xuống đi từ lúc gà vừa gáy rộ canh tư. Thằng Cò thì coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng còn chả mùi gì nữa là!

Tia nuôi tôi ngồi tựa lưng vào một gốc cây ngải, nhồi thuốc lá vào tẩu. Con chó săn trung thành bao giờ cũng ngồi bảo vệ bên chân chủ. Thằng Cỏ bung vỏ nước ra, ngửa cổ kể miệng vào vỏ uống nước ừng ực. Bỗng nó đặt vò nước xuống, thúc vào lưng tôi – Đố mày biết con ong mật là con nào?

Hỏi xong, nó đưa tay trỏ lên phía trước mặt. Tôi đảo mắt nhìn khắp nơi vẫn không thấy gì. Rừng cây im lặng quá. Một tiếng lá rơi lúc này cũng có thể khiến người ta giật mình. Lạ quá, chim chóc chẳng nghe con nào kêu. Hay vẫn có tiếng chim ở một nơi xa lắm, vì không chú ý mà tôi không nghe chăng?

Cao quả đầu tôi một với tay, có những chấm đen không nhúc nhích. Đó là mồi xanh đang bay đúng. Ông ảnh lướt những lá bông súng dưới vũng kia là con chuồn chuồn bay ngang với những cảnh mỏng và dài. Bé như hạt khế, cứ lắc lư lắc lư từ đất nhoi lên và đáp vào một cảnh ngải khô trên đầu tia nuôi tôi là điệu bay của con mối cánh.

 – Chịu thua mày đó! Tao không thấy con ong mật đâu cả.

Thằng Cỏ nghe tôi chịu thua, nó bèn vênh mặt lên cười, quay sang tôi:

– Bây giờ mày cứ nhìn kĩ vào khoảng cách giữa hai nhánh tràm cap kia! Ờ! Đúng rồi. Nhìn một chỗ trống ấy thôi nhá. Nó tới liền bây giờ.

Đã lâu lắm mà sao tôi chưa thấy gì cả. Tôi vừa toan đứng dậy thì tía nuôi tôi đã đã đến cầm tay tôi trỏ lên:

– Đó, con thấy nó chưa?

– Thấy rồi!

Tôi kêu khẽ. Ờ, phải rồi! Phải hết sức tinh mắt, thính tai mới tìm được những tay sứ giả của bình minh này. Một con... hai con... Rồi một đàn mười mấy con bay nối nhau như một chuỗi hạt cườm, trong những tầng xanh cây lá, có một cái chấm nâu đen cỡ đầu đũa vụt qua rất nhanh. Trên những ngọn tràm cao, đang lướt qua một đàn li ti như nắm trấu bay, phát ra những tiếng kêu eo… eo... Tiếng kêu thật nhỏ, không chú ý theo dõi thì không thể nào nghe được.

Chúng tôi giờ những nắm cơm vắt' ra. Ăn xong, bấy giờ bóng nắng mới bắt đầu lên. Gió cũng bắt đầu thổi rao rao theo với khối mặt trời tròn đang tuôn ánh sáng vàng rực xuống mặt đất. Một làn hơi đất nhỏ nhẹ tỏa lên, phủ mở những bụi cây cúc áo, rồi nhè nhẹ tan dần theo hơi ấm mặt trời. Phút yên tĩnh của rừng ban mai dần dần biến đi. Chim hót líu lo. Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất. Gió đưa mùi hương ngọt lan ra, phảng phất khắp rừng. Mấy con kỉ nhông nằm vươn mình phơi lưng trên gốc cây mục, sắc da lung luôn luôn biến đổi từ xanh hoa vàng, từ vàng hoa đỏ, từ đỏ hoa tím xanh,... Con Luốc động đậy cánh mũi, rón rén mò tới. Nghe động tiếng chân con chó săn nguy hiểm, những con vật thuộc loại bò sát bốn chân, to hơn ngón chân cái kia, liền quật chiếc đuôi dài chạy tứ tán. Con núp chỗ gốc cây thì biến thành màu xám vỏ cây. Con đeo trên tấm lá ngải thì biến ra màu xanh lá ngải.

Chúng tôi tiếp tục đi tới một cải trảng rộng. Giữa vùng cỏ tranh khô vàng, gió thổi lao xao, một bầy chim hàng nghìn con vọt cất cánh bay lên. Chim áo giả màu nâu, chim manh manh mỏ đỏ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm những chấm trắng chấm đỏ li ti rất đẹp mắt... Những con chim nhỏ bay và và kêu líu xíu lượn vòng trên cao một chốc, lại đáp xuống phía sau lưng chúng tôi. đẹp quá, Cỏ oi! – Tôi tặc lưỡi, kêu lên.

– Chi

– Thú chim cỏ này mà đẹp gì!

- Ở đây chim nhiều quá [..]

– Thứ đổ bỏ, không ăn thua gì đâu. Mày mà gặp “sân chim” thì máy sẽ biết.. Nó nói một cách lơ là như vậy rồi củ cắm của đội cải thùng đi. Tôi muốn hỏi về cải “sân chim”, nhưng vì tự ái và nghĩ nếu minh gặp cái gì cũng hỏi thì nó sẽ khinh mình dốt, bèn im im đi tới.

[...] Tôi chẳng hỏi gì thêm, cử lặng thinh. Nó cũng không thèm chú ý đến vẻ mặt khó đăm đăm của tôi, cử nắm tay tôi lôi đi, lại còn khoát tay ra hiệu bảo tôi đi thật khế Tôi nhìn theo ngón tay nó trỏ lên một kẻo ong gác trên cây tràm thấp. Tổ ong kia rồi! Sự mừng rỡ làm tôi quên phắt cái bực mình vừa qua. Tôi lại hỏi

– Sao biết nó về cây này mà gác kèo?

– Thằng mau quên hé! Vậy chớ mấy bữa nay, má nói gì cho máy nghe đó? – Nó chành môi ra cười hì là, trong cái miệng thấy ghét quả.

Tôi ngước nhìn tổ ong như cái thúng, lúc nhúc không biết bao nhiêu ong, dần đân nhớ lại lời má tôi kể

- …Rừng thì mênh mông, biết bao nhiêu cây! Một cây còn biết bao nhiêu nhánh! Biết con ong sẽ đóng tổ ở cây nào, nhánh nào? Có phải bạ chỗ nào nó cũng gởi mật đâu! Nhưng làm nghề nào rồi khắc phải thạo nghề ấy con ạ! – Má nuôi tôi đưa mắt trông ra những cánh rừng tràm lờ mờ khuất sau những bụi cây bình bát dại mọc quanh hẻ, ngẫm nghĩ một lúc rồi nói tiếp – Gió thổi có hưởng, cây tốt cũng có vùng. Chọn được vùng rừng tốt, biết rằng đến mùa xuân tràm sẽ kết nhiều hoa, minh mới định chỗ gác kèo. Phải xem hướng gió, tính trước đường bay của ong mật. Đó là những chỗ cắm cây dày, không bị ngọn gió thốc

thẳng vào và ít khi có những dấu chân người đi bắt rắn, người đốn củi lội đến... 

– Kéo là gì, hở má?

– Ờ, kéo cũng là nhánh tràm thôi. Nó to cỡ cổ tay, mang nhiều nhánh con tua tủa vào quãng giữa. Minh chặt lấy một khúc dài non thước tây, một đầu có cái nhánh con dùng làm cái mấu. Chọn được vùng rồi, còn phải chọn cây nào vừa kín, vừa im, có ít nhiều bóng nắng kia! Con ong không thích đóng chỗ rợp. Ở những nơi đó, bao giờ mật cũng chua, dễ bị ẩm. Gác chiếc kéo chênh chếch lên cây tràm xong, phải “rửa” bớt() những nhánh chung quanh để khi lấy mật khỏi vướng. Kéo chặt vào khoảng giữa tháng Mười một. Những cơn mưa muộn sẽ rửa hết mùi sắt ở hai đầu kéo bị dao rựa chặt, và nhánh kéo cũng đủ thời gian khô đi, cũ đi, giống với những nhánh khô khác trên cây. Kèo nào còn mùi sắt của con dao mới chặt thì con ong mật chúa kị, nó không bao giờ đóng tổ đâu...

– Coi bộ cũng không khó lắm hở má

Má nuôi tôi vỏ đầu tôi, cười rất hiền lành. Tôi cũng cười theo. Bà đằng hắng, nói

- Chẳng dễ đâu, con ạ! Nhiều người trở thành “dân ăn ong” đã năm mười năm trong nghề, vậy mà gác kèo xong tới mùa mật, mang gùi lên lưng vào rừng, lại mang gửi không trở về.

–Ủa! Tại sao vậy, má?

– Định không đúng chỗ, đoản sai hướng gió chứ sao! 

Mắt tôi vẫn không rời tổ ong lúc nhúc trên cây trầm thấp kia. 

[...] Tôi ngồi nhìn lên kẻo ong, thấy nó cũng giống như những tổ ong rừng vẽ trong sách vậy thôi. Nhưng có điều khác là không phải ngẫu nhiên mà nó đóng trên một cảnh cây nào đó. Chính tia nuôi tôi đã định sẵn cho chúng nó một nơi về đóng tổ... Theo như lời thầy giáo của tôi bảo, người La Mã xưa kia nuôi ong trong những cái tổ bằng đồng hình chiếc vại, có đục thủng nhiều hàng lỗ con vòng quanh miệng, quanh đáy. Người Mễ Tây Cơ làm tổ nuôi ong bằng đất nung, như một cái ống có hai cái loa hai đầu, giữa lung ống đắp một hình đầu người nho nhỏ làm vật trang trí, dùng hai sợi thừng treo lên cành cây.

Người Ai Cập nuôi ong trong những tổ bằng sành, hình ống dài, xếp chồng lên nhau, đặt trên bãi cỏ. Ở Phi châu người ta đục ruỗng một khúc thân cây, vít kín hai đầu, chỉ chừa một lỗ khoét nho nhỏ cho ong ra vào, treo lên bằng một đoạn dây nhỏ có mấu. Ở xứ Tây Âu, tổ ong lại lợp, bên bằng rom đủ kiểu, hình thù khác nhau... Không có nơi nào, xứ nào có kiểu tổ ong hình nhánh kéo như vùng U Minh này cả.

Những con ong vẫn nối cánh nhau bay đi bay về trên tổ, trước mặt chúng tôi kia. Con nào cũng lượn một vòng tròn trước khi đáp xuống. Người ta bảo rằng đó là vũ điệu báo hiệu của loài ong.

[...] Chúng tôi ngồi ăn cơm dưới một bụi cây tràm râm mát. Bóng nắng nghiêng rọi chếch xuống chỗ tôi ngồi. Mấy con gầm ghì sắc lông màu xanh đang tranh nhau với bầy vẹt mỏ đỏ, giành mổ những quả chín trên cây bổ đề. Lâu lâu, vài ba trái quả vàng rụng rơi lộp bộp, lăn vào cạnh chân tôi như hòn bị. 

E. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Đi lấy mật

1. Bối cảnh

-Thời gian: vào buổi sáng

+ Buổi sáng, đất rừng thật là yên tĩnh. Cái lành lạnh của hơi nước sông ngòi, mương rạch, của đất ấm và dưỡng khí thảo mộc thở ra từ bình minh

-Không gian : yên tĩnh ,cảnh đẹp hùng vĩ của núi rừng

+ Ánh sáng trong vắt, hơi gợn một chút ong ánh trên đầu những ngọn tràm rung rung, khiến người ta nhìn cái gì cũng cảm giác như là nó bao qua một lớp thủy tinh

+ Rừng cây im lặng quá một tiếng lá rơi cũng khiến người ta giật mình. Lạ quá chim chóc cũng chẳng nghe con nào hát

+ Chim hót líu lo

+ Nắng bốc hương hoa tràm thơm ngây ngất

+Gió đưa mùi hương ngọt lang ra phảng phất khắp rừng

+ Giữa rừng cây cỏ tranh, gió thổi lao xao một bầy chim hàng nghìn con vọt cánh bay lên. Chim áo già màu nâu, chim manh manh nhỏ đổ bóng như màu thuốc đánh móng tay, lại có bộ lông xám tro điểm nhứng chấm trắng chấm đỏ li ti đẹp mắt..

 Vẻ đẹp thiên nhiên của rừng U Minh thật yên tĩnh, và xao xuyến lòng người

2. Tác giả

loading...

Đoàn Giỏi (1925-1989)

- Ông có những bút danh khác như: Nguyễn Hoài, Nguyễn Phú Lễ, Huyền Tư

- Quê quán: Tiền Giang

-Gia đình: xuất thân trong một gia đình địa chủ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.

- Phong cách nghệ thuậtCác tác phẩm của Đoàn Giỏi thường viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người ở Nam Bộ

- Tác phẩm chính: Đất rừng phương Nam là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Đoàn Giỏi

- Các tác phẩm tiêu biểu của ông: Truyện dài

Đường về gia hương (1948)

+ Cá bống mú (1956)

Đất rừng phương Nam (1957)

Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962)

3. Thể loạitiểu thuyết

4. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Đoạn trích được trích trong tác phẩm Đất rừng phương Nam (1957)

- Tác phẩm viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Sau đó, cậu may mắn được ba mẹ Cò nhận nuôi và có cuộc sống hạnh phúc. Bối cảnh của tác phẩm là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 50 của thế kỉ XX, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ.

loading...

5. Phương thức biểu đạt:  Tự sự

6. Người kể chuyện: Nhân vật An

7. Nhân vật tía nuôi và thằng Cò

- Hai nhân vật này họ đã  đã quen thuộc với công việc này, chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ

+ Tía nuôi tôi đi trước, bên hông lủng lẳng chiếc túi, lưng mang cái gùi bằng tre đan đã trát chai, tay cầm chà gạc

+ Thằng cò đội một cái thúng to tướng trong thúng đựng một vò nước mấy gói cơm nắm

- Nhân vật cha nuôi là người đàn ông mạnh mẽ , khá nhuần nhuyễn với công việc

+ Ông vung tay một cái đưa con dao sắt phạt ngang một nhánh gai và dùng cái mẩu cong ở có đến sáu bảy tấc ây lôi  phăng nhánh gai chắn đường để lấy lối đi

- Ông là người rất tâm lý yêu thương, lo lắng cho An

+ Thôi, dừng nghỉ một lát bao giờ thằng An đỡ mệt, ăn cơm xong hẵn đi!

-Thằng Cò là người chịu khó, và rất quen thuộc vơi công việc này

+ Thằng cò coi bộ chưa thấm tháp gì. Cặp chân của nó như bộ giò nai, lội suốt ngày trong rừng chả mùi gì nữa là!

- Thằng Cò còn là người am hiểu về loài ong, và các đông vật trong rừng

- Rất thân thiện giải thích, tận tình giảng giải cho An về loài ong mật

- Kết luận: Hai cha con Cò là người rất quen thuộc với công việc đi lấy mật, và rất yêu thương An

8. Giá trị nội dung tác phẩm Đi lấy mật

- Tác phẩm kể về hành trình đi “ ăn ong’ trong rừng U Minh  của cậu bé An cùng cha nuôi và thằng cò. Cuộc hành trình này gợi ra nhiều điều mơi mẻ và sự tò mò thích tìm hiểu của cậu bé an

9. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Đi lấy mật

- Cách kể chuyện hấp dẫn , lôi cuốn

-  Miêu tả chi tiết tính cách nhân vật qua lời nói và hành động

Nghệ thuật tả cảnh giàu tính hình tượng

- Ngôi kể thứ nhất thể hiện rõ nét về sự tò mò của nhân vật An trong lần đầu đi lấy mật ong

- Ngôn ngữ nhân vật giản dị, gần gũi đậm chất miền Tây Nam Bộ

- Kết hợp tự sử, miêu tả và biểu cảm

1 91 lượt xem