Tác giả tác phẩm Xuân Diệu (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 12 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Xuân Diệu Ngữ văn lớp 12 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 12. Mời các bạn đón xem:

1 63 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Xuân Diệu - Ngữ văn 12

I. Tác giả Hoài Thanh

Xuân Diệu - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo

- Hoài Thanh (1909 - 1982): tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên, nhà phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

- Hoài Chân (1914 - ?): em ruột Hoài Thanh, tên khai sinh là Nguyễn Đức Phiên, nhà phê bình văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX.

II. Tìm hiểu tác phẩm Xuân Diệu

1. Thể loại Xuân Diệu

- Tác phẩm Xuân Diệu thuộc thể loại: văn bản nghị luận.

2. Xuất xứ Xuân Diệu

- In trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh – Hoài Chân. NXB Văn học, Hà Nội, 1988, tr103 – 105.

3. Phương thức biểu đạt Xuân Diệu

- Phương thức biểu đạt: nghị luận.

4. Bố cục đoạn trích Xuân Diệu

- Phần 1 (Từ Bây giờ khó...hiền lành của điệu thơ): giới thiệu về cốt cách, phong nhã của thơ Xuân Diệu.

- Phần 2 (Tiếp theo đến...mới thực là Xuân Diệu): đặc điểm sáng tác của Xuân Diệu.

- Phần 3 (Phần còn lại): Ví dụ về một số câu thơ nổi bật của Xuân Diệu.

5. Tóm tắt Xuân Diệu

Văn bản làm sáng tỏ đặc điểm sáng tác của nhà thơ Xuân Diệu trên con đường sáng tác nghệ thuật của ông.

6. Giá trị nội dung Xuân Diệu

- Văn bản nói về nghệ thuật sáng tác thơ của Xuân Diệu trong nền văn học thơ ca Việt Nam. Qua đó, ta thấy được Xuân Diệu là người một nhà thơ lãng mạn, yêu đời, tha thiết với cuộc sống, Xuân Diệu luôn vươn tới cái hoàn mỹ, tuyệt đích.

7. Giá trị nghệ thuật Xuân Diệu

- Sử dụng lí lẽ, dẫn chứng đầy thuyết phục.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Xuân Diệu

Xuân Diệu - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Chân trời sáng tạo

1. Đặc điểm thơ của Xuân Diệu

- Lối làm thơ có duyên, toát ra vẻ đài các rất hiền lành của điệu thơ => yêu kiều, cốt cách phong nhã của điệu thơ, thể hiện được nét đặc trưng của thơ Việt Nam.

- Thơ Xuân Diệu ví như một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ.

+ Xuân Diệu say đắm tình yêu, cảnh trời, sống vội vàng, cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình.

+ Ở ông, ta thấy được đó lại là nguồn sống dồi dào, “con hổ ngự trị trên rừng xanh, không cần phải là con chim đại bàng bay một lần chín vạn dặm mới là sống”.

=> Cách so sánh mới mẻ giúp người đọc thấy được định nghĩa sống của nhà thơ cũng tạo nên một nét riêng biệt, mà ở đó ta vẫn thấy được một Xuân Diệu sống hết mình, dâng trọn hết mình trong cuộc sống.

=> Khẳng định cái chất của Xuân Diệu, là đặc điểm mà khi nhìn vào ta biết đó là ông.

2. Dẫn chứng tiêu biểu làm sáng tỏ nhận định của tác giả về Xuân Diệu

- Khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, hữu tình dưới con mắt của Xuân Diệu:

+ Cảnh mùa thu:

Những luồng run rẩy rung rinh lá…

Cành biếc run run chân ý nhi.

+ Dưới đêm trăng thu: Linh lung bóng sáng bỗng rung mình.

+ Đôi khi là những hàng chữ lạ lùng: Thu lạnh, càng thêm nguyệt tỏ ngời,…

IV. Các bài văn mẫu

Tại sao Hoài Thanh lại đánh giá Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong số các  nhà thơ mới”. Hãy liệt kê và phân tích những đặc điểm mới này. |

Đề bài: Phân tích bài Xuân Diệu

Bài tham khảo 1

 Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình.

   Nếu phải chọn một nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1930-1945), mọi người sẽ không chút ngần ngại, chọn ngay Xuân Diệu, một nhà thơ từng được nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh xem là mới nhất trong các nhà thơ mới. Bàn về thơ của nhà thơ tài danh này, nhà phê bình tác giả quyển Thi nhân Việt Nam cũng đã khẳng định:

   Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này, Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết.

   Trước Cách mạng tháng Tám, Xuân Diệu đã được tôn vinh là “Ông hoàng thơ tình” với hai tập thơ: Thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Hai tập thơ này cùng chung một mạch cảm xúc là say đắm tình yêu và khao khát hạnh phúc: cuồng nhiệt. Đủ thấy nhà thơ đã tìm nguồn cảm hứng lãng mạn ở ngay cuộc đời trần thế. Thơ Xuân Diệu là thơ của một tâm hồn rất yêu đời, yêu tha thiết cuộc sống. Đối với tác giả tập Thơ thơ, điều kì diệu nhất là cuộc sống, điều đẹp đẽ đầy ý nghĩa nhất là con người, tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ ham sống, tha thiết với đời và khao khát tình yêu đến độ mê say. Thật vậy, Xuân Diệu yêu cuộc sông trần thế này với tất cả về bình dị, trong trẻo và nồng nhiệt nhất bàng một trái tim đắm đuối đến phút cuối cùng.

Hãy để cho tôi được giã từ

 Vẫy chào cõi thực đổ vào hư

     Trong hơi thở chót dâng trời đất

 Cũng vẫn si tinh đến ngất ngư

(Không đề)

   Chính vì vậy, nhà thơ đã quan sát, ghi nhận, và phát hiện ra được những lạc thú của cuộc sống. Hãy nghe chính Xuân Diệu đã tâm sự: “Với lòng tôi, trời đất chỉ có hai mùa: Xuân với Thu, hai mùa đặc biệt ý nhị, hai mùa có bình minh... Chứ còn từ Đông sang Xuân, sao mà sung sướng thế! Lạnh chuyến ngược lên ấm, từ một điều rất khó chịu chuyển ngược sang một điều rất dễ chịu. Theo lệ ấy, Hè sang Thu là bao nhiêu khoái trá cho giác quan, được rời bó lửa chói chang mà vào trong nước hiền hòa mát mẻ... Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi. Và ấm hay mát. Thu hay Xuân, lòng cũng rạo rực những tiếng mùa ái tình ghé môi gọi mời trong gió.

(Trường ca-Xuân Diệu)

   Đúng là phải ham sống, biết yêu, biết tận hưởng cuộc sống trần thế như Xuân Diệu mới viết nên được những dòng cảm nhận chính xác và tinh tế đến như vậy.

   Cũng với tâm hồn đắm say và lãng mạn, trong bài Vội làng nhà thơ đi viết:

           Của ong bướm này đây tuần tháng mật

  Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Này đây lá của cành tơ phơ phất

Của yến anh này đây khúc tình si

      Và này đây ánh sáng chớp hàng mi...

(Vội vàng-Xuân Diệu)

   Trước mắt Xuân Diệu, cuộc sống điển ra vô cùng sôi động, một nguồn nhựa sống bất tuyệt như đang tuôn trào dào dạt. Hai tiếng “này đây” lặp đi lặp lại nhiều lần như cho thấy những hương màu của mùa xuân mà nhà thơ đang trưng bày ra đây là nhiều, là dọn sẩn món ngon của bữa tiệc trần gian không sao kể cho xiết được. Này đây, này đây... là những hình ảnh đẹp đẽ và hấp dẫn của thiên nhiên cây cỏ, lá của cành tơ, khúc tình si của yến anh và cả hàng mi với đôi làn mắt chớp. Tất cả đều hiện ra trong một sắc màu sáng sủa và sinh động thể hiện “một nguồn sống dào dạt đắm say chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.

   Là người gắn bó với sự sống, vồ vập trước mọi vẻ đẹp của thiên nhiên, cây cỏ và con người lại khao khát tình yêu một cách cuồng nhiệt. Xuân Diệu muốn ôm cả hương sắc của trần thế vào lòng mình.

                   Ta muốn ôm

   Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

 Ta muối riết mây đưa và gió lượn

       Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

         Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

 Và non nước, và cây, và cỏ rạng...

   Đoạn thơ này với nhịp thợ dồn dập, sôi nổi, trào tuôn khiến người đọc không khỏi liên tưởng đến nhịp rộn ràng của trái tim thi nhân phút này. Xưa nay, đã mấy ai có được cái ham muốn nhiệt cuồng và mãnh liệt đến như vậy. Ở đây, Xuân Diệu muốn ôm vào vòng tay mình cả sự sống... mơn mởn, nhà thơ muốn riết mây đưa, muốn say cánh bướm, muốn thâu trong một cái hôn nhiều... Ngay trong nụ hôn thôi, đó là cái riêng tư giữa hai người với nhau mà thi nhân lại tưởng như trong đó đã thâu tóm cả nước non, cây cỏ. Đã vậy, lòng khát khao giao cảm, niềm say đắm với cảnh trời với tình yêu của thi nhân lại ngày một tảng lên mạnh mẽ và dữ dội.

Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Vội vàng-Xuân Diệu)

   Cũng chỉ có Xuân Diệu mới có thể say đắm và thèm khát tình yêu đến nỗi đã khẳng định:

Làm sao sống được mà không yêu

Không nhớ không thương một kẻ nào

(Bài thơ tuổi nhỏ - Xuân Diệu)

   Trong thơ tình của thi nhân này còn biết bao vần điệu nồng nàn, mãnh liệt và đắm say đến độ nhiệt cuồng, dữ dội:

                   Anh nhớ tiếng. Anh nhớ hình. Anh nhớ ảnh .

Anh nhớ em, anh nhớ lắm em ơi!

(Tương tư chiều-Xuân Diệu)

Nên lúc môi ta kể miệng thắm

Trời ơi! Ta muốn uống hồn em!

(Vô biên-Xuân Diệu)

   Tuy Xuân Diệu đã khẳng định “cái tôi” một cách mạnh mẽ bằng khát vọng tận hưởng hạnh phúc trần gian như thế, những do lúc bấy giờ thiếu một quan niệm biện chứng về thế giới, nhà thơ chỉ thấy thời gian là biến suy, là tàn tạ, là phôi pha và chỉ thấy ở cuối chặng đường đời là cái già, cái chết là sự hư vô:

          Tóc ngời mai mốt không đen nữa

Tuổi trẻ khô đi mặt xấu rồi

 

Già nua đã bỏ sẵn hai tay

          Hôm ấy trông ta gượng ánh ngày

           Bệnh hoạn cắn xương như rắn rúc,

  Ta ngồi góp lực nhớ hôm nay.

(Hư vô - Xuân Diệu)

  Già sẽ đến, giơ tay xua ánh sáng

          Đuổi bướm chim làm sợ cả hoa hương

Và dần dà càng rõ rệt bộ xương

 Mà bạn hữu sẽ đặt nằm dưới đất.

(Thanh niên - Xuân Diệu)

   Chẳng khác chi một người có vật báu, lòng luôn nơm nớp lo sợ mất nó. Xuân Diệu cũng vậy. Say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, thi nhân rất sợ mất nó, vì biết rằng tuổi xuân sẽ qua đi, cuộc đời sẽ mất đi. Vì thế mà Xuân Diệu lúc nào cũng vội vàng, cuống quýt giục giã để tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình:

      Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ!

Em ơi em: tình non sắp già rồi

     Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi

          Mau với chứ, thời gian không đứng đợi

... Gấp đi em anh rất sợ ngày mai

(Giục giã - Xuân Diệu)
   Ở bề sâu của cái “vội vàng”, của lời 'giục giã“ ấy vẫn là một tâm hồn yêu đời sâu nặng, yêu cuộc sống một cách thiết tha của Xuân Diệu. Chính vì thế khi vui cũng như khi buồn người đều nồng nàn, tha thiết.

   Tâm hồn của nhà thơ luôn khát khao được giao cảm với đời, say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời. Với tất cả tâm hồn mình, người đã bao lần lắng nghe những tiếng nói “huyền diệu” của đất trời:

     Hãy lắng nghe em khúc nhạc thơm

Say người như rượu tối tân hôn

     Như hương thấm tận qua xương tủy

Âm điệu thần tiên thấm tận hồn

(Huyền diệu-Xuân Diệu)

   Phải nồng nàn, tha thiết lắm mới “còn cứ rung hoài như chiếc lá “khi khúc nhạc” ấy đã ngừng im”.

   Phải nồng nàn và tha thiết lắm nhà thơ mới nghe được ca tiếng lòng của đôi kẻ yêu nhau:

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

         Lần đầu rung dộng nỗi thương yêu

(Thơ duyên -Xuân Diệu)

   Với tất cả tâm hồn nhạy cảm đầy nồng nàn và tha thiết của mình, Xuân Diệu cũng nghe được cả sự rung động trong lòng ta và trong ý bạn.

Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy

Lòng anh thôi đã cưới lòng em

(Thơ duyên-Xuân Diệu)

   Đó là trong niềm vui. Nhưng ngay trong nỗi buồn, Xuân Diệu cũng không hề lặng lẽ mà vẫn rất nồng nàn và tha thiết. Chính điều này đã khiến nhà thơ nhìn mọi vật trong đời giữa cái thế luôn vận động. Thật vậy, chỉ có đôi mắt xanh non của Xuân Diệu mới nhìn thấy sự “rung mình” của ánh trăng khi nghe tiếng đàn lạnh lẽo giữa đêm thu:

     Linh lung ánh sáng bỗng rung mình

Vì nghe nương tử trong câu hát

     Đã chết đêm rằm theo nước xanh!

(Nguyệt cầm-Xuân Diệu)

   Cũng chính đôi mắt ấy đã phát hiện ra hình hài của cái lạnh đang luồn trong gió đến, khi mùa thu mới chớm về:

Đã nghe rét mướt, luồn trong gió

(Đây mùa thu tới-Xuân Diệu)

Trong thơ mình và ngay cả trong đời mình, Xuân Diệu lúc nào cũng thể hiện một sự tha thiết nồng nàn hay nói khác, một chất sống mãnh liệt dào dạt. Không thể tìm thấy ở nhà thơ tài danh này sự nguội lạnh hay sự nhàn nhạt một cách đơn điệu trung bình, đều đều, phẳng lặng. Với nhà thơ thì:

Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối

Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.

(Giục giã-Xuân Diệu)

   Phải hiểu là hai câu thơ này không thể hiện sự hưởng lạc hay sống gấp mà chính là thể hiện một tấm lòng ham sống, say mê sống đến độ tha thiết, nồng nàn, dạt dào và mãnh liệt của chính bản thân nhà thơ.

   Tóm lại, đúng như nhận định của Hoài Thanh: “Thơ Xuân Diệu còn lù một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui củng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Suốt cuộc đời hoạt động nghệ thuật của mình, tình yêu đối với cuộc sống, với con người, với tuổi trẻ và tình yêu trong lòng của nhà thơ vẫn luôn luôn dạt dào và mãnh liệt. Chính vì vậy mà “ông Hoàng của thơ tình” đã khám phá được nhiều biến thái tinh vi của thiên nhiên cũng như nội tâm con người và thể hiện được trong những vần thơ ít lời, nhiều ý, súc tích như đong lại bao nhiêu là tinh hoa. (Thế Lữ).

1 63 lượt xem