TOP 12 mẫu Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du (HAY NHẤT 2024)

Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du Lớp 11 Chân trời sáng tạo gồm 12 bài văn mẫu siêu hay giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 11 hiệu quả hơn.

1 66 lượt xem


Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du

Đề bài: Em hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) Cảm nhận của bạn về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du, trong đó chú ý đến những câu thơ có sử dụng biện pháp đối.

Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du (mẫu 1)

Đại thi hào Nguyễn Du được mệnh danh là một trong những bậc thầy văn học cổ điển của nước ta, ông đã để lại trong kho tàng văn học Việt Nam những bài thơ xuất sắc cùng cách sử dụng từ ngữ tinh tế, nhạy bén. Vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du nằm ở sự sắc sảo, tinh tế của từng từ, những hình ảnh sống động được miêu tả qua những câu thơ vừa ý nghĩa vừa hài hòa. Điều này giúp cho những ý tưởng, tình cảm được truyền tải đầy đủ và chân thật hơn đến với người đọc. Vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du còn nằm ở cách sử dụng các biện pháp tu từ, như đối, ngữ, cảnh, chữ, âm, ngữ điệu, v.v... để tạo ra những hình ảnh đẹp và tác động sâu sắc đến tâm trí của người đọc. Một điểm đặc biệt khác của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du là sự đa dạng của từ ngữ, từ những từ đơn giản, thường ngày đến những từ cổ xưa, uy nghi và học thuật. Nó tạo ra một sự phong phú, đa dạng về ngôn ngữ, giúp tác phẩm trở nên sâu sắc và mang tính triết lý. Tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du là một kho tàng văn học vô giá, một nét đẹp tinh tế và độc đáo của dân tộc ta. Chúng ta nên trân trọng và phát huy tối đa giá trị của nó và truyền cảm hứng cho các thế hệ mai sau.

Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du (mẫu 2)

Nói tới tấm lòng thì ông gọi là “tấm riêng , tấm yêu , tấm son ,tấm thành hoặc tấc cỏ ,tấc riêng , tấc son, tấc lòng” … Cùng là gió mà có bao nhiêu thứ gió như : “gió mưa , gió trăng , gió trúc mưa mai, gió tựa hoa kề , gió tủi mưa sầu” … Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá . Nhà thơ cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp không đâu có. Chẳng hạn : “ăn gió nằm mưa”, “bướm chán ong chường”, “bướm lả ong lơi”, “cười phấn cợt son”, “liễu chán hoa chê”, “ngày gió đêm trăng”, “nắng giữ mưa gìn”. Nguyễn Du là người đầu tiên mang đến cho ngôn ngữ Việt Nam cái mùi hết sức khác lạ: “mùi nhớ”. Với Nguyễn Du thì nỗi nhớ người yêu cũng có hương vị riêng. Đây là một cách nói hết sức hiện đại. Với cách dùng từ hiện đại kiểu như “mùi nhớ”, “lá gió”, “cành chim” (Dập dìu lá gió, cành chim), “ngậm gương” (Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương)... đại thi hào đã góp phần đưa ngôn ngữ dân tộc lên một tầm cao mới. Ngôn ngữ Truyện Kiều đẹp và mang một sức sống lâu bền bởi được chắt lọc từ  sự giản dị mà tinh diệu trong ngôn ngữ đời sống của người dân xứ Nghệ…Điều chúng ta trân trọng và gìn giữ là hương âm xứ Nghệ thân thương. Đó là thứ “hương âm vô cải” đã góp phần làm nên vẻ đẹp kì ảo, lung linh của lục bát Truyện Kiều. Khi nói đến ngôn ngữ Truyện Kiều là nói đến một thứ ngôn ngữ tinh lọc, bác học đạt đến sự tài hoa nhưng nét tài hoa không chỉ là cái đẹp của sự hoàn mĩ của chữ Nôm người Việt mà nó còn đẹp và duyên dáng trong tiếng nói của người xứ Nghệ. Giáo sư Vũ Khiêu từng nói: “Nguyễn Du là sự kết tinh của văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Kinh Bắc với văn hóa Tràng An để rồi hòa nhập vào văn hóa thế giới với khuôn mặt không thể trộn lẫn. Với những tác phẩm chất chứa tinh thần nhân đạo, ngòi bút đầy rung cảm và tài năng văn chương lỗi lạc, nhất là Truyện Kiều Nguyễn Du đã làm đẹp thêm văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Việt Nam”. Phải một ngôn ngữ Việt, một tiếng Việt như tiếng Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều mới chất chứa, chuyển tải được tất cả những phẩm chất ấy. Đúng như nhà thơ Chế Lan Viên từng thổn thức:

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc.

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn.”

Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du (mẫu 3)

“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”

Đây là một câu thơ trong Truyện Kiều chứ không phải là một câu trong kho tàng tục ngữ hay thành ngữ tiếng Việt. Nhưng nó có giá trị chẳng khác gì (thậm chí còn hơn) một câu tục ngữ, thành ngữ chính danh. “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, đó là lời của Nguyễn Du thốt lên khi nói về thân phận nàng Kiều (“Kể bao xiết nỗi thảm sầu/ Đoạn trường ai có qua cầu mới hay”). Nếu giải nghĩa đơn giản, ý của câu thơ là “Phải trải qua thực tế (qua cầu) với những gì đã trải qua thì ta mới hiểu, mới thấm thía hết mọi điều (diễn ra trong cuộc sống)”. “Mới hay” là “mới biết, mới thấu hiểu một điều gì đó khi quan sát mọi sự tình diễn ra”. Đó là logic của cuộc sống. Đó là một lẽ đời. Và đó cũng là một triết lí dân gian về giá trị của sự từng trải, chiêm nghiệm. Tất nhiên, người không chứng kiến những biến cố của ai đó trong cuộc đời vẫn có thể “tri nhận” và thấu cảm sự đời. Đó là lẽ thường tình. Chả ai mong nhận về mình những khổ đau, trắc trở. Nhưng nếu họ đã từng trải qua thì sự thấu cảm đó chắc chắn sẽ thấm thía và sâu sắc hơn. Và cũng chính từ cảnh ngộ của mình, họ sẽ trưởng thành, rắn rỏi hơn. Họ cũng dễ thông cảm và chia sẻ cùng người khác. Có tới 76 trường hợp 'hoa' được dùng hoán dụ với nghĩa chỉ người đẹp, sắc đẹp, tình yêu. Hoa được Nguyễn Du dùng để đặc tả khuôn mặt, dáng vẻ, dung nhan của Kiều: “Nàng càng ủ dột nét hoa”; “Xót nàng chút phận thuyền quyên/ Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn”; “Về đây nước trước bẻ hoa/ Vương tôn quý khách ắt là đua nhau”; “Sợ gan nát ngọc liều hoa”;...Ngoài các từ ghép phái sinh trên, 'hoa' còn xuất hiện trong một loạt thành ngữ khác: cỏ nội hoa tàn (nhan sắc người con gái đã phai tàn), hoa cười ngọc thốt (nụ cười tươi và tiếng nói trong của người con gái), hoa ghen thua thắm (người con gái rất đẹp, đến hoa cũng phải ghen), hoa rụng hương bay (người con gái đã qua đời), hoa thải hương thừa (người con gái không còn trinh tiết, bị vứt bỏ, khinh rẻ), hoa trôi bèo giạt (cảnh lênh đênh, trôi nổi của đời người con gái), hoa xuân đương nhụy (người con gái ở độ tuổi xuân xanh, đang đẹp), hoa xưa ong cũ (người con gái gặp lại người cũ, tình nhân cũ), liễu chán hoa chê (chỉ cảnh ăn chơi hết tầm, tới mức chẳng còn thiết gì nữa), nguyệt nọ hoa kia (quan hệ nam nữ linh tinh, không đứng đắn),... Chỉ tập trung phân tích 2 từ tiêu biểu (đoạn trường và hoa) ta cũng thấy tài tình, ảo diệu của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Ông đã có công rất lớn đối với việc Việt hóa các từ Hán Việt. Qua ngữ cảnh sử dụng, các từ này vừa mang nghĩa gốc, vừa mang nghĩa chuyển. Lịch sử tiếng Việt cho thấy, cha ông ta đã tiếp nhận các từ ngoại lai (mà số lượng từ Hán Việt chiểm tỉ lệ lớn nhất (theo H. Maspéro -1912, là khoảng 60%, theo thống kê mới nhất của Phạm Hùng Việt - 2018, là trên 35%) có sự chủ động và sáng tạo. Các từ Hán Việt trong Truyện Kiều đã có sự thay đổi ngữ nghĩa, đa dạng, sinh động và giàu sắc thái biểu nghĩa và biểu cảm hơn rất nhiều. Về vấn đề này, V. I. Lênin đã có một câu rất chí lí: 'Cái cốc ở nhà anh dùng để đựng nước, nhưng sang nhà tôi, tôi có thể dùng làm cái chặn giấy hay nhốt con bướm'. Giá trị ngữ dụng chính là thước đo hiệu quả, công năng ngữ nghĩa của các từ ngữ mà Nguyễn Du sử dụng trong Truyện Kiều.

Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du (mẫu 4)

Tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du là một vẻ đẹp đặc biệt, có sức thu hút đối với các độc giả và nhà thơ yêu thơ ca. Trong những bài thơ của Nguyễn Du, biện pháp đối đóng vai trò rất quan trọng để tạo ra sự tương phản và sâu sắc trong hình tượng. Một số câu thơ của Nguyễn Du sử dụng biện pháp đối như: 'Hoa đào thắm lắm, mai thâm càng đậm', 'Trăng tròn khuyết vẫn là trăng, đêm ngày qua lại vẫn đêm ngày', 'Con người trồng rau người ăn, nhân sinh trông cạn nước còn tình'. Những câu thơ này khiến cho người đọc phải tựa cảm với những tình cảm sâu sắc và hình ảnh đẹp tinh tế. Bên cạnh đó, tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du còn mang đến sự cảm thụ về đời sống, tình cảm và thăng trầm của cuộc đời. Sự đối lập và tương phản trong từng câu thơ càng làm cho người đọc cảm thấy sâu sắc và đẹp mắt hơn. Với những ai yêu thích văn chương và thơ ca, tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du chắc chắn là một nét đẹp đặc trưng và duyên dáng không thể bỏ qua.

Cảm nhận về vẻ đẹp của tiếng Việt trong thơ Nguyễn Du (mẫu 5)

đang cập nhật

1 66 lượt xem