TOP 14 mẫu Nghị luận về Cải ơi (HAY NHẤT 2024)
Nghị luận về Cải ơi Ngữ văn 11 Kết nối tri thức gồm 14 bài văn mẫu hay nhất năm 2024 giúp học sinh viết bài tập làm văn 11 hiệu quả hơn.
Nội dung bài viết
Nghị luận về Cải ơi
Đề bài: Viết một bài văn nghị luận về Cải ơi
Dàn ý Nghị luận về Cải ơi
I. Mở bài
Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Ngọc Tư, tác phẩm Cải ơi
II. Thân bài
1. Tác giả (tiểu sử cuộc đời, phong cách nghệ thuật, sự nghiệp văn học,…)
2. Tác phẩm
- Nội dung: Kể lại hành trình tìm kiếm lại niềm hạnh phúc, ông già Năm Nhỏ tìm kiếm đứa con gái của mình trong vô vọng, và nỗi xót xa ấy đã lắng lại trong lòng người đọc một nỗi buồn man mác, sự mơ hồ về kiếp nhân sinh
- Giá trị nghệ thuật, ý nghĩa của tác phẩm.
III. Kết bài
Cảm xúc của em sau khi đọc xong tác phẩm Cải ơi
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 1)
Khi bàn về “Nỗi sợ đối với nhà văn”, Nguyễn Ngọc Tư đã bộc bạch: “Riêng tôi tin vào duyên...Không phải cứ tích lũy mày mò tháng ngày mà thành, văn chương không tùy thuộc vào sự thuần thục, cũng như ta biết không phải viết nhiều, đều đặn thì là nhà văn”. Đúng vậy,giữa tác phẩm văn học với người đọc bao giờ cũng tồn tại thứ duyên ngầm khó ước đoán, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà văn. “Cải ơi” chính là một tác phẩm có cái duyên ngầm ấy. Vẫn lối viết giản dị, chân xác, bộc trực của con người phương Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người đọc những day dứt khôn nguôi về số phận của những con người lưu lạc.
Truyện ngắn “Cải ơi!” còn có tên là “Ơi Cải về đâu”, nằm trong tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” sáng tác năm 2005. Tác phẩm kể về cuộc hành trình tìm con ròng rã của ông Năm Nhỏ. Cải - đứa con riêng của vợ với người chồng cũ, bỏ nhà ra đi vì làm mất cặp trâu, sợ bị đòn. Từ ngày ấy, cuộc sống của ông Năm gặp vô vàn bất hạnh. Ông hứng chịu sự dòm ngó và khinh miệt từ làng xóm cùng sự lạnh lùng, hắt hủi từ người vợ. Ông quyết định rời quê hương, ra đi tìm con. Theo chân chuyến hành trình khắc khoải của người cha ấy, ta còn bắt gặp những con người có thân phận lưu lạc khác như Thàn, Diễm Thương.
Tác phẩm có thể được chia thành bốn phần. Trong đó, phần một kéo dài từ đầu cho đến “tìm được con Cải về”, phần hai từ tiếp theo cho đến “rủ đi ăn hủ tiếu”. Phần ba nối tiếp cho đến “Chết lặng” và phần bốn là toàn bộ nội dung còn lại. Nhan đề tác phẩm, bao gồm cả nhan đề cũ và mới đều bao gồm tiếng “Ơi” như một lời gọi. “Cải ơi” là tiếng gọi vừa yêu thương, nhung nhớ cũng vừa đau đớn, vô vọng của ông Năm Nhỏ suốt mười hai năm trời ròng rã tìm con. Nhan đề ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh éo le “Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương”. Các nhân vật hiện lên trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Người đọc sẽ tự hỏi tại sao một ông già lại cùng tham gia vào đoàn ca múa nhạc với một chàng trai trẻ? Điều gì đã khiến Thàn quyết định dẫn theo ông Năm Nhỏ về ngã ba Sương? Dường như, cuộc đời của mỗi con người đều chứa đựng nhiều uẩn khúc và những câu chuyện khuất lấp đó, nay lại tiếp tục ở nơi ở mới này. Nguyễn Ngọc Tư luôn đặt cho nhân vật những cái tên giản dị, đậm màu sắc Tây Nam Bộ. Sáu Đèo, Út Vũ, Dậu, Sáo, Năm Nhỏ - tất cả đều là những cái tên gợi lên số phận đáng thương, nhỏ nhoi, cơ cực. Nhân vật Thàn có cái tên đặc biệt, gần giống với tài tử Hong Kong mà khuyết mất một chữ “h”, dường như đây là dấu hiệu cho thấy Thàn có một niềm đam mê nghệ thuật mãnh liệt nhưng vì “thiếu” chút gì đó mà không thể thành danh. Sau này, chính Thàn cũng ngậm ngùi số phận “lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn” của mình. Diễm Thương thì khác, cô có cái tên thật đẹp, vừa yêu kiều lại vừa trìu mến. Thế nhưng, trái ngược với cái tên, Diễm Thương lại có khuôn mặt “không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn, đố ai biết nó nghĩ gì, mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre”. Tên các địa danh như làng Cỏ Cháy, ngã ba Sương gợi liên tưởng đến những miền quê quanh năm nắng cháy, những con phố mịt mờ như vô định không biết đâu là điểm dừng.
Ba con người, ba mảnh đời héo hon ấy đã gặp gỡ, cùng nhau trải qua những tháng ngày mưu sinh và cũng là mưu cầu hạnh phúc. Cuộc đời và chính con người họ, không ai là “lành lặn”. Với lối kể giản dị, ngôi kể thứ ba cùng hệ thống điểm nhìn thay đổi linh hoạt, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn tả những đau đớn tột cùng, những những khát khao bình dị của những con người nhỏ bé.
Nhân vật chính trong truyện là ông Năm Nhỏ. Ông có tình yêu thương con vô bờ, tấm lòng nhân hậu hết mực,lòng tự trọng đáng quý và số phận bất hạnh, phải lưu lạc suốt mười hai năm. Để làm nổi bật những đặc điểm ấy ở ông Năm, tác giả đã đảo lộn trật tự các sự kiện trong truyện kể, lồng ghép giữa quá khứ và hiện tại, Ngay ở phần đầu là khung cảnh ông Năm sống với Thàn và Diễm Thương. Tối hôm ấy, Thàn đi chơi về, thấy ông Năm vẫn ngồi khọm rọm ngoài vách mùng hút thuốc. Thàn hồn nhiên nghĩ rằng ông Năm nhớ đoàn quá nên ngủ không được. Ông già lắc đầu, thở dài, cái tiếng thở dài “nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi”. Hóa ra, ông bần thần vì không biết làm thế nào để tìm ra con Cải. Quá khứ của ông lúc này hiện về trong dòng hồi tưởng. “Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại”. Ngày Cải đi, vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bà cho rằng ông ngược đãi, hà khắc với nó vì Cải là con với chồng trước. Ngày ngày, bà nhìn ông bằng con mắt chứa đầy hoài nghi, thù ghét. Không chỉ gia đình mà bà con làng xóm cũng quay lưng với ông. Người ta xầm xì, chỉ trỏ. Có ai quan tâm đến thực hư con nhỏ đã đi đâu hay đồng cảm với nỗi đau đứt ruột của người cha? Thói đời là thế, người ta nhảy bổ vào xâu xé kẻ “có tội” như con thiêu thân lao đến ánh đèn. Để thỏa mãn sự hiếu kì nhân danh lòng đức độ, có người còn dập dìu thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng. Cũng có người “thẳng thắn”, “thông minh” hơn, biết tận dụng vụ việc mà bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Thậm chí, có kẻ giàu tưởng tượng và giàu luôn cả sự nhẫn tâm còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào. Người kể chuyện thể hiện thái độ thương xót, đồng cảm với ông Năm trước tình cảnh đau đớn, để ông bộc lộ cảm xúc của mình: “Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời)”. Khi con Cải đi rồi, ông đã ứa nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng như thể Cải vẫn còn ở nhà. Mất con, người cha hành động như một kẻ mất hồn. Lúc nào lòng ông cũng đau đáu vì nhớ con, lo lắng con lưu lạc nay đây mai đó, không biết sống chết ra sao. Những câu: “Như thế mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à?” như lời tự giãi bày, thanh minh của ông Năm Nhỏ. Ông nói với chính mình, nói với những người nghi oan cho ông và hơn hết, ông cũng muốn nhắn nhủ với Cải rằng ba nó thương nó lắm, hãy về nhà với ba má nó đi. Vì thế, ông quyết định khăn gói bỏ xứ ra đi, “bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về”. Ông Năm không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đọc những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, không hiếm khi ta bắt gặp kiểu nhân vật lưu lạc như thế này. Ông Năm tha hương không phải vì mưu sinh mà như một sự tự lưu đày, trốn chạy và quên đi niềm đau dù nỗi đau ấy chẳng lúc nào nguôi ngoai.
Dòng hồi tưởng cứ thế tiếp tục. Sau những tháng ngày lênh đênh, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc. Ông chọn công việc ấy bởi lí do hết sức đáng thương. Ông thường mượn cái micro nói vài câu trước giờ diễn: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con...”, hi vọng đứa con bé bỏng của ông có thể xuất hiện trong đám khách hoặc nếu có người biết tin thì báo cho ông. Người làm cha chẳng từ bỏ một chút hi vọng nào, dù là nhỏ nhoi nhất, để tìm lại được con. Về sau, ông còn dồn hết tiền mua một cái nhà lụp xụp và xe kẹo kéo. Xe kẹo kéo có mục “nhắn tìm con” của ông nổi tiếng khắp các chợ cá, quán nhậu, ngã ba. Sự nỗ lực, kiên trì, tình yêu thương của ông thật đáng khâm phục. Ròng rã suốt chừng ấy thời gian, người cha này chưa lúc nào nguôi ngoai đi tội lỗi và niềm đau mất con. Sự trở về của Cải là điều duy nhất có khả năng giải thoát ông khỏi sự dày vò. Lạc lõng, nổi trôi thì đớn đau, khổ sở vô cùng nhưng nếu ông không đi khỏi Cỏ Cháy, chính niềm ân hận, tuyệt vọng cùng thái độ của những người xung quanh sẽ giết chết ông. “tiếng “Cải ơi !!!…” nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu giữa lưng trời”. Ông Năm chính là một cánh chim cô đơn đến tội nghiệp!
Sau khi hé lộ quá khứ của ông Năm và nguyên do khiến ông trụ lại ngã ba Sương, người kể chuyện lại quay trở về thực tại, tiếp tục hành trình tìm con của nhân vật này. Cải, đối với ông, trở thành niềm hạnh phúc xa xăm trong quá khứ, sự khao khát tuyệt vọng của hiện tại. Ông níu lấy những hi vọng mong manh về con bé như một người sắp rơi xuống vực tìm kiếm sợi dây. Chìm trong nỗi đau quá lâu, ông Năm như mất trí. Có lẽ, chỉ những người xung quanh là thảng hoặc nhận ra điều ấy. Diễm Thương đã lợi dụng sự “thèm” con của ông Năm để lấy tiền cá cược. Giây phút nghe thấy con nhỏ thảng thốt gọi “Ba !”, ông “đứng im sững, ngơ ngác giây lát”. Niềm hạnh phúc ập đến quá nhanh khiến đôi môi ông runrun, lập bập hỏi: “Cải phải hôn con?”. Nguyễn Ngọc Tư vẫn giữ nguyên những từ ngữ địa phương để diễn tả chân xác từng sắc thái cảm xúc của nhân vật. Người kể chuyện chú ý đến từng cử chỉ, biểu cảm của ông Năm: “Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy”, “Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Những suy nghĩ thầm kín, khát khao bên trong của nhân vật cũng được người kể chuyện phơi bày: “Nghe giọng là cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, vẻ mặt không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó)”. Vẫn là ngôi kể thứ ba nhưng điểm nhìn đôi khi được thay đổi linh hoạt để nhân vật bày tỏ tâm trạng một cách chân thực. Và thế là, giọt nước mắt của ông lăn dài trên má. Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế… Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt”. Ở đây, giọt nước mắt của ông Năm đã cho thấy niềm hạnh phúc đến nghẹn ngào, vỡ bung ra bởi bị kìm nén quá lâu. Giọt nước mắt đã gom hết biết bao tình cảm, nỗi đau, sự rối bời từ quá khứ đến hiện tại. Ông gặp nhỏ Diễm Thương hằng ngày kia mà? Cớ nào lại không biết mặt nhỏ? Có lẽ, chỉ cần nghe thấy tiếng “Ba!” là tâm trí ông bị lu mờ, chỉ còn biết nghĩ đến viễn cảnh đưa con về Cỏ Cháy.
Chi tiết ông muốn lên tivi để con thấy mình đã chứng tỏ ông Năm không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Trật tự kể chuyện lại được đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu con. Ông già lặng người đi, hồi tưởng lại những kỉ niệm dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang,chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều rồi cõng nó đi tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già. Ông nhớ từ cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, đến mấy cục kẹo dừa. Ông tự nhủ: “Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên”. Thậm chí, có lần ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim, ông còn sướng rơn lăng xăng chạy lại ló mặt vào mấp máy câu “Cải ơi...”. Vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì.
Không chỉ hết lòng vì con gái, ông Năm Nhỏ còn là một người giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh, biết yêu thương. Những tháng ngày sống ở căn nhà lụp xụp, kéo xe kẹo kéo đi khăp nơi, giữa ông và Thàn đã nảy sinh tình cảm nồng ấm như tình cha con ruột thịt. Họ đồng cảm, bảo bọc, chở che nhau. Thàn gọi ông Năm là “tía”, tối tối chui vào giường ông ngủ và ôm ông như ôm lấy người cha. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông chẳng trách cứ, mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết tin Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn làm đại diện họ nhà gái. Có lẽ, thấm thía nỗi đau của những người không nhà, không có nơi để về nên ông Năm đã thương cảm cho Thàn, Diễm Thương và coi họ như những đứa con của mình. Ông vẫn vui cho niềm vui của đôi trẻ mà không để nỗi đau của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh.
Với tất cả những điều trên, người đọc luôn hi vọng ông Năm Nhỏ sẽ tìm lại được đứa con của mình, chấm dứt chuỗi ngày tha hương. Thế nhưng, câu chuyện lại có một cái kết vô cùng ám ảnh. Ông quyết định trở thành một tên trộm, mà ông lại trộm đôi trâu - thứ mà con gái ông đã làm mất. Dường như ông muốn chứng minh cho Cải thấy rằng đôi trâu ấy chẳng sá gì đâu! Khi bị đưa lên xã, ông chỉ chực chờ có đài truyền hình xuống quay hình “để dân người ta cảnh giác”. Người ta gọi ông là “Đạo tặc đãng trí”, nhiệt tình phỏng vấn các bên đương sự. Chỉ duy có câu nói của ông: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không ? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì… Về nghen con, ơi Cải…” là bị cắt bỏ. Câu chuyện lưng chừng ở đó, liệu ông Năm có tìm được Cải hay tiếng gọi ấy vẫn lại vang vọng hoài trên ngã ba Sương (hay một con đường nào khác)?
Ngoài ông Năm Nhỏ thì Thàn và Diễm Thương cũng là những thân phận lưu lạc, bơ vơ đến đáng thương nhưng mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Thàn là một chàng trai có ước mơ, có đam mê và quyết sống trọn với đam mê ấy. Anh từng hi vọng sẽ trở thành ca sĩ nổi tiếng để khiến cha tự hào. Thàn cũng dành cho Diễm Thương một tình yêu chân thành, sự trân trọng và cảm thông đặc biệt. Dù tính tình Diễm Thương lạnh lùng, không cảm xúc, vì mưu sinh và những tổn thương quá khứ mà trở nên gai góc nhưng Thàn vẫn thương cô thật lòng. Với ông Năm Nhỏ, Thàn coi ông như người cha. Ngày đoàn hát giải tán, Thàn dẫn theo ông về chỗ Diễm Thương. Khi Diễm Thương lấy nỗi đau của ông Năm để cá cược, “Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu”. Cuối cùng, Diễm Thương không phải là nhân vật chính, hiện lên với những lời thoại thô lỗ, cộc cằn nhưng cũng để lại trong lòng người đọc những trăn trở. Vẻ ngoài lạnh lùng của cô được tạo nên bởi tuổi thơ cơ cực. Thái độ gay gắt, có phần khó ưa của Diễm Thương khi thấy ông Năm tìm con xuất phát từ sự tủi thân. Không giống như ông Năm, Diễm Thương không khóc mà chua xót nói: “Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm... Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng”, “Còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu…” Cô cũng “lên tivi” như ông Năm để ba mẹ thấy mình. Nhưng định kiến, sự cô đơn đã vùi dập cô gái ấy quá nhiều, dường như cô quá quen chăng? Ngày bị gia đình Thàn phản đối, cô chỉ chào rồi bỏ về. Ẩn sau sự lạnh lùng, không ai hay biết cô đang nghĩ gì là một trái tim khao khát yêu thương đến vô cùng. Với các nhân vật phụ, tác giả cũng sử dụng lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại khi hồi tưởng lại những ngày Thàn ở nhà với người cha ruột, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời của nhân vật với lời người kể chuyện và khắc họa tâm lí nhân vật sâu sắc thông qua lời nói, cử chỉ, suy nghĩ.
Nhà văn đã sắp xếp trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại, ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri cùng hệ thống điểm nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật để miêu tả chính xác, khách quan diễn biến hành động và nội tâm của từng nhân vật. Từ đó, truyện khắc họa sâu sắc số phận cô đơn, nhỏ bé, đáng thương của những con người phải lưu lạc và bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn của họ. Hơn hết, tác phẩm còn đề ra cho ta một day dứt, trăn trở về cách đối nhân xử thế, về lòng bao dung trong cuộc đời.
Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư thực sự “không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người”.
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 2)
Pau- top- xki đã từng nói: “Văn học đối với tôi là một hiện tượng đẹp đẽ nhất thế giới”. Thật vậy, chỉ khi đến với văn chương, người thi sĩ mới được tự do để bày tỏ nỗi lòng mình, và rồi mang tới cho độc giả biết bao những trạng thái cảm xúc vui buồn khác nhau. Giống như khi ta thưởng thức tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, tác giả đã thành công để lại biết bao niềm lắng đọng trong trái tim các độc giả.
Con người với số phận riêng tư có thể coi là một đề tài được tác giả Nguyễn Ngọc Tư khai thác thành công nhất trong sự nghiệp văn học của mình. Nhân vật trong các tác phẩm của bà thường là những con người thuần chất Nam Bộ được thể hiện rõ nét qua những cái tên mộc mạc, giản dị, chân chất, đồng thời mang trong mình những tâm tư, nguyện vọng nhỏ bé,bình dị, đời thường trong cuộc sống mưu sinh vất vả trên sông rạch chằng chịt. Mỗi một câu của Nguyễn Ngọc Tư lại được khai thác từ một góc cạnh khác của cuộc sống, đó là những chất chứa những đau đớn tột cùng, là số phận cô độc, hiu hắt của mảnh đời nghẹn đắng nỗi buồn cùng thân phận của nhỏ bé của những người nông dân chân chất với những khát khao, ước muốn bình dị về cơm áo gạo tiền, về một mái ấm gia đình yên an, hạnh phúc.
Mở đầu truyện ngắn Cải ơi là một cuộc tìm kiếm trên khắp khắp các hang cùng ngõ hẹp của người cha già Năm Nhỏ “đã đi qua chợ, qua đồng, tới rất nhiều quê xứ”. Ông đã lang thang trong hơn mười hai năm trời cùng với tiếng gọi “Cải ơi!”. Cải là con gái riêng của vợ và chồng trước của bà: “Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà”. Sau khi biết chuyện, vợ ông buồn lắm, bà nghi ngờ vì ông hà khắc, ngược đãi nên con nhỏ mới sợ bà bỏ nhà ra đi. Cho dù ông có giải thích, thề thốt như nào đi chăng nữa, bà cũng chẳng tin lời ông. Và thế là ông Năm bất chợt biến thành “Tên trộm đãng trí” thậm trí người ngoài họ còn “Đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ ùn ùn lại coi”. Vì quá đau khổ và nhục nhã, ông Năm đã quyết định khăn gói ra đi, lên đường quyết tâm tìm được cái Cải trở về. Giữa biển người bao la rộng lớn ấy, đâu phải nói tìm là tìm được ngay. Ông đã lăn lội qua rất nhiều quê xứ, nhưng vẫn chẳng có tung tích gì của Cải. Lần ấy, ông đã xin vào làm chân sai vặt cho đoàn nghệ thuật, với mong muốn trước mỗi lần đoàn diễn, ông sẽ mượn micaro và nói: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con….” Chỉ một câu nói ấy thôi, đã khiến cho bao độc giả đọc tới đây không kìm được nỗi xúc động, tuy Cải chẳng phải là con ruột ông, nhưng qua bao ngày tháng chung sống, ông đã sớm coi nó là con của mình. Một người cha già, lặn lội vất vả trên mọi mảnh đất, chỉ mong sao tìm được đứa con yêu quý của mình.
Và sau khi biết Diễm Hương lên ti vi để tìm cha mẹ của mình, ông Năm Nhỏ đã “Lặng người đi, tự hỏi, bây giờ ông lên ti vi, con Cải có nhận ra ông không”. Ông vẫn còn nhớ như in những kỉ niệm mà ông dắt cái Cải đi hái xoài chín, chặt chuối làm bè dạy nó lội, rồi còn cùng nó trăn trâu, chơi thả diều, mỗi lần nó ốm là lại cõng nó đi khám. Ông Năm Nhỏ già như vậy mà còn nhớ, huống chi là cái Cải: “Ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chưa chắc đã quên”. Vả lại, đăng tin lên truyền hình cũng tốn kém lắm, song lần nào phỏng vấn người ta cũng bắt ông đọc theo kịch bản, ông không chịu thì người ta bảo: “Trên đài chứ có phải chợ trời đâu mà muốn nói gì cũng được”. Ông giận quá, bỏ về ngay, chỉ đành nghĩ cách khác. Có hôm, thấy người ta đang làm phim về việc lần chiếm lòng đường, ai ai cũng tá hỏa sợ bỏ chạy đi hết, chỉ có riền mình ông hớn hở chạy đến chỗ máy quay mà “ Mấp máy câu “Cải ơi…””. Ấy vậy mà lúc chương trình được phát sóng, người ta lại cắt đoạn đấy của ông đi. Ông rầu lắm, chẳng biết cách nào có thể lên ti vi mà tìm con gái. Không lâu sau, ông Năm Nhỏ đã đi trộm trâu rồi đem ra chợ bán. Đây chính là kế sách mà ông nghĩ ra. Đúng như dự đoán, ông đã bị bắt và còn bị đưa lên đồn, trong lúc đi, ông còn không quên nhắc người ta nhớ mời phóng viên xuống phỏng vấn ông và đăng bài cho bà con cùng đề phòng những kẻ trộm. Và thật may, đài trên tỉnh đã cử người xuống, có nhà báo còn viết sẵn tít “Kẻ trộm đãng trí”. Sau khi đã phỏng vấn tất cả những người có liên qua, ông Năm Nhỏ đã xin được ghi hình để nhắn nhủ vài lời: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng chớ đôi trâu có nhằm nhò gì... Về nghe con, ơi Cải...”. Đó là một cuộc tìm kiếm lại niềm hạnh phúc, ông già Năm Nhỏ tìm kiếm đứa con trong vô vọng, và nỗi xót xa ấy đã lắng lại trong lòng người đọc một nỗi buồn man mác, mơ hồ về kiếp nhân sinh: “Nghe đâu hôm đó đài truyền hình có đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng nói một cách tuyệt vọng”.
Giọng văn của của tác giả mang đậm bản sắc của vùng Miền Tây sông nước. Và trong rất nhiều những câu chuyện về miền cù lao chăm, miền sông nước, vùng biển rộng lớn, mênh mông, với những con người cần cù chịu khó, sáng tối lắm làm, hay những mảnh đời khó khăn bất hạnh...đều được nhà văn khắn học rất chân thực qua từng câu văn. Qua đó Nguyễn Ngọc Tư đã thành công để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc cùng nỗi niềm cảm xúc thật sâu lắng khi đọc tác phẩm Cải ơi.
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 3)
Trong tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta được đưa vào một thế giới đau buồn và đầy lòng nhân ái, nơi những con người lưu lạc tìm kiếm sự thương yêu và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm này được viết bởi một trong những nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại – Nguyễn Ngọc Tư, nữ thi hào sinh năm 1976 ở Cà Mau. Với việc sử dụng truyện ngắn, tiểu thuyết và tản văn, tác giả đã tạo ra một tập truyện đa dạng, trong đó Cải ơi được coi là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất.
Qua câu chuyện, người đọc thấy nhân vật chính là ông Năm Nhỏ, một người nông dân xuất thân từ làng Cỏ Cháy. Số phận của ông được quyết định bởi việc mất con Cải. Ông đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm con, đi qua những khó khăn và nghèo khổ. Ông có tình yêu thương vô hạn dành cho con và không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào để tìm kiếm con. Ông cũng có lòng bao dung, sự vị tha và thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Trong truyện “Cải ơi”, tác giả đã sử dụng trật tự kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu của ông Năm đối với con. Có một chi tiết đặc biệt là ông Năm muốn lên truyền hình để con thấy mình đã chứng tỏ ông không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Điều này thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm của ông trong việc tìm kiếm con yêu.
Trong những khoảnh khắc lặng người, ông Năm hồi tưởng lại những kỷ niệm đáng yêu khi còn có Cải bên cạnh. Ông nhớ từ những kỷ niệm nhỏ như dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, chặt chuối làm bè và dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều cho Cải. Những hình ảnh này thể hiện tình yêu và sự quan tâm của ông đối với con trước khi họ bị chia cắt. Có một lần ông Năm đậu xe kẹo đầu chợ và thấy người ta đang quay phim, ông còn rất vui mừng và sẵn sàng chạy lại để xuất hiện trước ống kính và gọi “Cải ơi…”. Đó vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì về con. Sự sẵn lòng và sự kiên nhẫn của ông Năm trong việc tìm kiếm con đáng được ngưỡng mộ.
Nhân vật Thàn, một người có ước mơ và hoài bão, đồng cảm với ông Năm và có tình yêu chân thành với Diễm Thương. Cuộc sống của Thàn trở nên lưu lạc vì không thể thực hiện được ước mơ của mình. Nhân vật Diễm Thương, một nhân vật khác trong truyện, có một quá khứ đau buồn khi bị cha mẹ bỏ rơi. Cô có ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm. Tuy nhiên, cô khao khát được yêu thương và có một cuộc sống đáng sống. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông không trách cứ hay mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết rằng Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn đại diện cho họ như một người cha. Điều này cho thấy ông Năm đã thấu hiểu nỗi đau của những người không có gia đình, không có nơi để trở về. Mỗi nhân vật đều được tác giả xây dựng cụ thể và điểm nhìn linh hoạt cho phép lời người kể và lời nhân vật hòa quyện với nhau. Tác giả cũng xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Ngôn ngữ trong tác phẩm mang chất khẩu ngữ miền Nam, tạo nên sự chân thực và chặt chẽ với ngữ cảnh của câu chuyện.
Tình yêu và lòng nhân hậu của ông Năm Nhỏ không chỉ dành riêng cho con gái mình, mà còn lan tỏa đến những người xung quanh. Qua những câu chuyện và nhân vật trong tác phẩm Cải ơi, chúng ta được mở mang tầm nhìn và suy ngẫm về cuộc sống và con người.
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 4)
Trong 'Cải ơi' của Nguyễn Ngọc Tư, không chỉ là câu chuyện về việc mất mát và tìm kiếm, mà còn là hình ảnh về lòng nhân ái, lòng hy sinh và lòng trung hiếu. Nguyễn Ngọc Tư đã chứng minh một lần nữa rằng, qua những nhân vật giản dị, qua những tình huống đầy cam go, vẫn tồn tại những giá trị nhân văn sâu sắc và lòng trung hiếu không biên giới trong xã hội.
Nhân vật chính của truyện, ông Năm Nhỏ, là biểu hiện của lòng cha đầy tình yêu thương và lòng trung hiếu sâu sắc. Trong cuộc hành trình tìm kiếm con, ông không chỉ trải qua những khó khăn, gian truân về vật chất mà còn phải đối mặt với sự hiểu lầm và lạnh lùng từ người xung quanh. Nhưng lòng trung hiếu của ông không bao giờ phai nhạt. Ông không chỉ tìm kiếm con mình mà còn trở thành bậc thầy cho những người xung quanh, giúp họ thấu hiểu về lòng cha mẹ và lòng nhân ái. Ông Năm không chỉ là người cha tuyệt vời trong tâm trí đọc giả, mà còn là biểu tượng của lòng nhân ái và lòng trung hiếu trong xã hội.
Thàn và Diễm Thương, hai nhân vật phụ trong câu chuyện, cũng là những hình ảnh đầy ý nghĩa. Thàn, người phụ nữ chung tình và mạnh mẽ, không chỉ là người đồng hành của ông Năm mà còn là người yêu thương và chia sẻ gánh nặng cuộc sống với ông. Cô giúp ông vượt qua mọi thử thách và trở thành nguồn động viên không ngừng cho ông. Diễm Thương, mặc kệ vẻ ngoại hình lạnh lùng, lại là người phụ nữ nhân hậu, biết quan tâm và đồng cảm với người khác. Câu chuyện của họ là minh chứng cho việc lòng nhân ái có thể tồn tại trong mọi hoàn cảnh và với mọi hình dạng.
Nguyễn Ngọc Tư không chỉ kể một câu chuyện mà còn là nguồn động viên lớn, khuyến khích chúng ta thấu hiểu và chia sẻ lòng trung hiếu với gia đình, với người xung quanh. Qua 'Cải ơi!', chúng ta học được rằng, trong cuộc sống, tình yêu thương và lòng nhân ái là những giá trị không bao giờ lỗi thời, và đó chính là điều khiến cuộc sống trở nên ý nghĩa và hạnh phúc.
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 5)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 6)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 7)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 8)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 9)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 10)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 11)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 12)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 13)
đang cập nhật
Nghị luận về Cải ơi (mẫu 14)
đang cập nhật