Tác giả tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 6 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ Ngữ văn lớp 6 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 6. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ - Ngữ văn 6
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Đăng Mạnh (1930-2018), nguyên quán tại Gia Lâm, Hà Nội.
- Thiếu thời, ông theo học ở trường Chu Văn An, Hà Nội. Khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, trường ông học sơ tán lên Phú Thọ, rồi trường bị giải tán. Ông theo học trường trung cấp sư phạm ở Tuyên Quang và bước vào nghề giáo.
2. Sự nghiệp
- Năm 1960, Nguyễn Đăng Mạnh được giữ lại trường Đại học Sư phạm Hà Nội làm cán bộ giảng dạy. Từ đó ông bắt đầu viết nghiên cứu và trở thành nhà nghiên cứu phê bình.
- Ông từng làm chủ nhiệm bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại, khoa Ngữ văn, trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
- Nguyễn Đăng Mạnh là chủ biên sách giáo khoa văn học lớp 11 và 12 chương trình cải cách giáo dục 1980–1992.
- Về già sống tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sau một thời gian lâm bệnh, GS Nguyễn Đăng Mạnh đã từ trần vào chiều ngày 9/2/2018 tại Bệnh viện hữu nghị Việt –Xô Hà Nội, hưởng thọ 89 tuổi.
3. Phong cách sáng tác
Nguyễn Đăng Mạnh được coi là nhà nghiên cứu đầu ngành về văn học Việt Nam hiện đại và được phong tặng danh hiệu Nhà giáo Nhân dân. Ông nổi tiếng gần đây là nhờ quyển hồi ký có viết một vài chi tiết về chủ tịch Hồ Chí Minh (có kể đến cái chết của bà Nông Thị Xuân) và các quan chức trong chính phủ của đảng cộng sản Việt Nam như Tố Hữu; cũng viết về những nhà văn, nhà thơ như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu,...
II. Đọc tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
Nguyên Hồng – Nhà văn của những người cùng khổ
(Nguyễn Đăng Mạnh)
Ai từng tiếp xúc với Nguyên Hồng đều thấy rõ điều này: ông rất dễ xúc động, rất dễ khóc. Khóc khi nhớ đến bạn bè, đồng chí từng chia bùi sẻ ngọt; khóc khi nghĩ đến đời sống khổ cực của nhân dân mình ngày trước; khóc khi nói đến công ơn của Tổ quốc, quê hương đã sinh ra mình, đến công ơn của Đảng, của Bác Hồ đã đem đến cho mình lí tưởng cao đẹp của thời đại. Khóc cả khi kể lại những khổ đau, oan trái của những nhân vật là những đứa con tinh thần do chính mình “hư cấu”[1] nên. […] Ai biết được trong cuộc đời mình, Nguyên Hồng đã khóc bao nhiêu lần! Có thể nói mỗi dòng chữ ông viết ra là một dòng nước mắt nóng bỏng tình xót thương ép thẳng ra từ trái tim vô cùng nhạy cảm của mình.
(2) Có thể xem đây là một trong nhiều lí do đã bồi đắp nên tính nhạy cảm nói trên của Nguyên Hồng: Con người ấy thiếu tình thương từ nhỏ nên luôn luôn khao khát tình thương và dễ thông cảm với những người bất hạnh. Ông mồ côi cha từ năm 12 tuổi. Mẹ lại đi bước nữa[2] và thường phải đi làm ăn xa. Đó là một người đàn bà dịu hiền và có nhan sắc nhưng phải gắn bó với một người chồng già nghiện ngập bằng một cuộc hôn nhân ép uổng. Bà thương con vô cùng, nhưng do cảnh ngộ éo le nói trên, nên một thời gian dài sau khi chồng mất, bà không được gần con. Sau này, Nguyên Hồng viết truyện Mợ Du là để nói lên được phần nào tâm trạng đau đớn của người mẹ trẻ bị gia đình nhà chồng khinh ghét, xua đuổi, không cho phép tự do gần gũi con mình. Còn thân phận chú bé mồ côi phải sống nhờ vào một bà cô cay nghiệt nào đó thì nhà văn đã thuật lại trong tập hồi kí Những ngày thơ ấu:
“Ngày 20-11-1931. Giá ai cho tôi một xu nhỉ? Chỉ một xu thôi! Để tôi mua xôi hay bánh khúc. Giời rét thế này, đi học một mình, vừa đi vừa cắn ngon xiết bao! Không! Không có ai cho tôi cả. Vì người ta có phải mẹ tôi đâu!”. […]
(3) Cảnh ngộ ấy đã ném Nguyên Hồng vào môi trường những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Ngay từ tuổi cắp sách đến trường, ông đã phải lăn lộn với đời sống dân nghèo để tự kiếm sống bằng những “nghề nhỏ mọn” nơi vườn hoa, cổng chợ, bến tàu, bến ô tô, bãi đá bóng,… chung đụng với mọi hạng trẻ “hư hỏng” của các lớp “cặn bã”, tụi trẻ […] bán báo, bán xôi chè, bánh kẹo, hoa quả, bán các đồ chơi lặt vặt, đi ở bế con hay nhặt bóng quần[3], hoặc ăn mày, ăn cắp từ con cá, lá rau.
Năm 16 tuổi, khi phải rời bỏ quê hương đến thành phố Hải Phòng thì ông càng nhập hẳn vào cuộc sống của hạng người dưới đáy của xã hội thành thị. Hoàn cảnh ấy đã tạo nên ở Nguyên Hồng một cái gì đó có thể gọi là “chất dân nghèo, chất lao động”. Điều này không thể có ở những cây bút khác. Nó thể hiện ngay ở cái vẻ ngoài của nhà văn khiến người ta thoạt tiếp xúc, không thể phân biệt ông với những người dân phu lam lũ hay những bác thợ cày nước da sạm màu nắng gió.
Chất dân nghèo, chất lao động thể hiện rất rõ trong cung cách sinh hoạt vô cùng giản dị của ông: từ thói quen ăn mặc, đi đứng, nói năng, thái độ giao tiếp, ứng xử với mọi người đến cả những thích thú riêng trong ăn uống,… Bà Nguyên Hồng nói rằng, nhìn “ông ấy” cầm chén rượu khề khà nhấm nháp một mình, thấy không khác gì những bác phu xe ngày xưa ngồi uống rượu nơi hè phố sau những giờ lao động năng nhọc. Chất dân nghèo, chất lao động đã thâm sâu vào văn chương, vào thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Ông thật sự là nhà văn của nhân dân lao động. […]
(Tuyển tập Nguyễn Đăng Mạnh, tập 1, NXB Giáo dục, 2005)
III. Tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
1. Thể loại
Văn bản nghị luận
2. Xuất xứ
Trích Tuyển tập Nguyễn Đăng Mạnh, tập 1, 2005.
3. Phương thức biểu đạt
Nghị luận.
4. Tóm tắt tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
Ai từng tiếp xúc với Nguyên Hồng đều thấy rõ ông rất dễ xúc động và cũng dễ khóc. Một trong nhiều lí do bồi đắp nên tính nhạy cảm ấy là vì Nguyên Hồng thiếu tình thương từ nhỏ, luôn khao khát tình thương, dễ thông cảm với những người bất hạnh. Cảnh ngộ ấy đã ném Nguyên Hồng vào môi trường những người cùng khổ nhất trong xã hội cũ. Chất dân nghèo, chất lao động đã thấm sâu vào văn chương, vào thế giới nghệ thuật của Nguyên Hồng. Ông thật sự là nhà văn của nhân dân lao động.
5. Bố cục tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
Chia văn bản thành 3 phần:
- Phần 1: Nguyên Hồng là con người nhạy cảm
- Phần 2: Thời thơ ấu bất hạnh
- Phần 3: Hoàn cảnh sống cơ cực của nhà văn Nguyên Hồng
6. Giá trị nội dung tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
- Ca ngợi phẩm chất và tài năng của nhà văn Nguyễn Hồng
- Khẳng định ông là nhà văn luôn gắn chặt cuộc sống của mình với những người nông dân.
7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
- Văn nghị luận sắc bén, chặt chẽ.
- Sử dụng một số biện pháp tu từ: liệt kê, so sánh, điệp.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nguyên Hồng – nhà văn của những người cùng khổ
1. Tính cách nhạy cảm của Nguyên Hồng
- Nguyên Hồng rất dễ xúc động, rất dễ khóc:
+ Khóc khi nhớ đến bạn bè, đồng chỉ từng chia bùi sẻ ngọt.
+ Khóc khi nghĩ đến đời sống khổ cực của nhân dân mình ngày trước.
+ Khóc khi nói đến công ơn của Tổ quốc, quê hương đã sinh ra mình, đến công ơn của Đảng, của Bác Hồ đã đem đến cho mình lí tưởng cao đẹp của thời đại.
+ Khóc khi kể lại những nỗi đau, oan trái của những nhân vật.
- Mỗi dòng chữ ông viết ra là một dòng nước mắt từ trái tim nhạy cảm.
Tâm hồn nhạy cảm, dễ xúc động của Nguyên Hồng.
2. Tuổi thơ của Nguyên Hồng
- Hoàn cảnh:
+ Mồ côi cha từ năm 12 tuổi.
+ Mẹ đi thêm bước nữa và thường làm ăn xa.
+ Sinh ra trong cuộc hôn nhân ép uổng.
→ Vì cảnh ngộ éo le, gia đình chồng khinh ghét nên mẹ không hay gần gũi Hồng.
- Sự cô đơn, bị khinh ghét:
+ Không được gần mẹ.
+ 'Giá ai cho tôi 1 xu nhỉ?', 'Đi học một mình', 'Không! Không có ai cho tôi cả. Vì người ta có phải mẹ tôi đâu!'.
Thiếu thốn, khao khát cả vật chất lẫn tình thương nên luôn khao khát tình thương và dễ thông cảm với người bất hạnh.
3. Số phận đáng thương của Nguyên Hồng
- Hoàn cảnh sống cực khổ:
+ Từ thời cắp sách đến trường: lặn lội với đời sống dân nghèo để tự kiếm sống bằng những nghề nhỏ mọn, chung đụng với mọi hạng trẻ hư hỏng và các lớp cặn bã.
+ Năm 16, khi đến Hải Phòng: càng nhập hẳn với cuộc sống của hạng người dưới đáy thành thị.
Tạo nên “chất dân nghèo, chất lao động”
- Chất dân nghèo, chất lao động:
+ Vẻ ngoài: thoạt đầu tiếp xúc không thể phân biệt với những người dân lam lũ hay những bác thợ cày nước da sạm màu nắng gió.
+ Lối sinh hoạt: thói quen ăn mặc, đi đứng, nói năng, thái độ giao tiếp, ứng xử, thích thú riêng trong ăn uống...
Ảnh hưởng đến văn chương của ông.
V. Các bài văn mẫu
Đề bài: Cảm nghĩ về nhà văn Nguyên Hồng
Bài tham khảo 1
Nguyên Hồng là nhà văn của những người cùng khổ. Điều đó đầu tiên xuất phát từ chính con người của ông - một người nhạy cảm, dễ xúc động. Từ nhỏ, nhà văn đã sống thiếu đi tình yêu thương, đặc biệt là của những người thân trong gia đình. Cha mất sớm, mẹ đi bước nữa và thường xuyên phải đi làm ăn xa. Dù yêu thương con, nhưng người mẹ ấy lại không có nhiều thời gian con. Chính bởi hoàn cảnh đó khiến cho nhà văn đồng cảm sâu sắc với những người bất hạnh. Cuộc sống của Nguyên Hồng cũng không dễ dàng. Từ nhỏ, khi còn đi học, ông đã phải tự mình bươn chải kiếm sống bằng những nghề nhỏ mọn, chung đụng với mọi hạng người nơi đầu đường xó chợ. Mười sáu tuổi, ông đã phải rời bỏ quê hương đến thành thị kiếm sống. Hoàn cảnh đó đã làm nên chất dân nghèo, chất lao động trong ông. Điều đó đã thấm vào các tác phẩm của ông, đem đến những cảm nhận sâu sắc cho người đọc.
Bài tham khảo 2
Nguyên Hồng là một nhà văn đặc biệt - nhà văn của những người cùng khổ. Có lẽ chính bởi hoàn cảnh khó khăn, chân lấm tay bùn và thiếu thốn tình thương nên ông có những thấu hiểu, đồng cảm cho những kiếp người khố rách áo ôm của xã hội. Cha mất, mẹ đi thêm bước nữa, tuổi thơ ông đầu đường xó chợ, bươn chải làm đủ mọi nghề. Chính vì thế chất nghèo, chất lao động đã thấm sâu vào văn chương và vào thế giới nghệ thuật của tác giả. Những trang văn của tác giả cứ thế đi sâu vào lòng người đọc với những cảm xúc rất đỗi tự nhiên. Tác giả Nguyên Hồng cùng với những tác phẩm của mình sẽ còn mãi trong tâm trí của người đọc.