Tác giả tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi) (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi) Ngữ văn lớp 10 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 63 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi) - Ngữ văn 10

I. Tác giả Nguyễn Trãi

1. Cuộc đời

Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

- Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu Ức Trai. 

- Quê gốc: Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương; sau dời về Nhị Khê (Thường Tín - Hà Tây).

- Thân sinh: Nguyễn Ứng Long - một nhà Nho nghèo, học giỏi, đỗ tiến sĩ đời Trần.

- Mẹ: Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Hãn.

- Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, văn hóa, văn học.

- Nợ nước, thù nhà => theo Lê Lợi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- 1427 - 1428: khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng => viết Bình Ngô đại cáo.

- Sau đó tham gia xây dựng đất nước, rồi bị oan.

- 1439 ra ở ẩn tại Côn Sơn.

- 1440 quay lại chốn quan trường.

- 1442: oan Lệ Chi Viên => tru di tam tộc, đến hơn 20 năm sau mới được Lê Thánh Tông minh oan.

=> Tổng kết:

+ Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, một danh nhân văn hóa thế giới.

+ Một con người phải chịu những oan khuất thảm khốc nhất trong lịch sử chế dộ phong kiến Việt Nam.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

- Những tác phẩm chính viết bằng chữ Hán: Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô Đại Cáo, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục,...

- Những tác phẩm bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập hiện còn 254 bài chia làm bốn môn loại: Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn. Phần Vô đề chia thành nhiều mục: Thủ vĩ ngâm (1 bài), Ngôn chí (21 bài), Mạn thuật (14 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Tự thuật (11 bài), Tức sự (4 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài) v.v...

b. Giá trị văn chương

* Văn chính luận:

- Nội dung: Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước thương dân.

- Nghệ thuật: Đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực, kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

* Thơ trữ tình:

- Lý tưởng của người anh hùng: nhân nghĩa hòa hợp với yêu nước thương dân, lúc nào cũng tha thiết mãnh miệt.

- Phẩm chất ý chí của người anh hùng mạnh mẽ kiên trung, vì dân vì nước chiến đấu chống ngoại xâm và cường quyền bạo ngược.

=> Kết luận:

+ Nội dung: hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn là yêu nước và nhân đạo.

+ Nghệ thuật: có đóng góp lớn ở cả hai phương diện thể loại và ngôn ngữ.

II. Đọc tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43

Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

III. Tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

1. Thể loại

Thất ngôn xen lục ngôn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Là bài thứ 43 thuộc phần “Bảo kính cảnh giới” (gương báu răn mình), ở phần vô đề của tập thơ “Quốc âm thi tập”.

- Bài thơ được sáng tác khoảng những năm 1438 – 1439 khi tác giả về ở ẩn tại Côn Sơn.

3. Nội dung chính tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

Bài thơ miêu tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên ngày hè. Tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước tha thiết của tác giả.

Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

4. Bố cục tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

Gồm 2 phần:

- Phần 1 (6 câu thơ đầu): bức tranh thiên nhiên ngày hè.

- Phần 2 (2 câu thơ cuối): tấm lòng của Nguyễn Trãi.

5. Giá trị nội dung tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

Bài thơ “Cảnh ngày hè” miêu tả vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên. Thể hiện tình yêu thiên nhiên và cuộc sống. tấm lòng yêu thương dân tha thiết của tác giả.

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

- Từ ngữ giản dị, giàu sức biểu cảm; hình ảnh thơ gần gũi; câu lục ngôn, dồn nén cảm xúc.

- Thể thơ Đường luật phá cách, xen vào các câu thơ lục ngôn.

- Tả cảnh ngụ tình.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

Gương báu khuyên răn – Bài 43 - Tác giả tác phẩm (mới 2022) | Ngữ văn lớp  10 Cánh diều

1. Bức tranh thiên nhiên cảnh ngày hè

– Câu 1: Tâm thế của nhà thơ:

+ Rồi: rỗi rãi, không vướng bận.

+ Hành động: hóng mát => thư thái, thảnh thơi.

+ Thời gian: thuở ngày trường =>ngày dài, hết ngày này đến ngày khác.

+ Cách ngắt nhịp 1/2/3: nhấn mạnh vào hoàn cảnh đặc biệt của Nuyễn Trãi phút giây nghỉ ngơi hiếm hoi của nhà thơ.

=> Tác giả đã mở đầu bài thơ bằng một tâm trạng yêu thiên nhiên tha thiết, đồng thời với một tâm thế thư thái khi đến với thiên nhiên, rảnh rỗi hóng mát nhưng tâm trạng bất đắc chí. Câu thơ hiện lên hình ảnh của nhà thơ Nguyễn Trãi, ông đang ngồi dưới bóng cây nhàn nhã như hóng mát thật sự. Việc quân, việc nước chắc đã xong xuôi ông mới trở về với cuộc sống đơn sơ, giản dị, mộc mạc mà chan hòa, gần gũi với thiên nhiên.

– Câu 2, 3, 4: Bức tranh thiên nhiên ngày hè:

+ Cách ngắt nhịp 3/4 làm nổi bật cảnh sắc của mùa hè.

+ Hình ảnh: hòe lục, thạch lựu, hồng liên trì, là những hình ảnh mộc mạc, gần gũi, bình dị chốn thôn quê Việt Nam.

+ Màu sắc: màu xanh của lá hòe, đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen. Bức tranh sinh động nhiều màu sắc.

+ Trạng thái của cảnh vật: sử dụng các động từ mạnh, tính từ sắc thái hóa:  đùn đùn, giương, phun, tiễn. Cảnh vật đang tự thôi thúc, ứa căng sự sống, đua nhau trổ dáng, khoe sắc, tỏa hương.

=> Có thể nhận thấy bức tranh thiên nhiên mùa hè hiện ra một cách hài hòa giữa cảnh vật với nhau, tạo nên điểm nhìn nghệ thuật. Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông bừng bừng sức sống. Cây hòa lớn lên nhanh, tán cây tỏa rộng che rợp mặt đất như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cánh hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi, sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời…

– Câu 5, 6: Bức tranh cuộc sống, con người:

+ Thời gian: lầu tịch dương, cuối ngày, lúc mặt trời sắp lặn.

+ Âm thanh: lao xao gợi sự ồn ào, náo nhiệt nơi chợ cá => âm thanh của cuộc sống hằng ngày. Dắng dỏi: tiếng ve kêu inh ỏi, rộn rã ngân dài => âm thanh đặc trưng của mùa hè.

+ Nghệ thuật đảo ngữ lao xao chợ cá và dắng dỏi cầm ve nhấn mạnh âm thanh đặc trưng ngày hè, không khí nhộn nhịp buổi chiều nơi làng quê.

+ “Chợ” là hình ảnh của sự thái bình trong tâm thức của người Việt. Chợ đông vui thì nước thái bình, thịnh trị, dân giàu đủ ấm no: chợ tan rã thì dễ gợi hình ảnh đất nước có biến, có loạn, có giặc giã, có chiến tranh, đao binh… lại thêm tiếng ve kêu lúc chiều tà gợi lên cuộc sống nơi thôn dã. Chính những màu sắc nơi thôn dã này làm cho tình cảm ông thêm đậm đà sâu sắc và gợi lại ý tưởng mà ông đang đeo đuổi.

=> Tác giả đã mở ra không gian ngày hè đầy màu sắc và âm thanh trong sáu câu thơ trên, từ đó chúng ta đủ thấy được bức tranh ngày hè rất sinh động và tràn đầy sức sống, có sự kết hợp giữa đường nét, màu sắc, âm thanh, con người. Nguyễn Trãi đã quan sát thiên nhiên bằng tất cả các giác quan của mình và tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của tác giả.

2. Tấm lòng của Nguyễn Trãi

– Điển tích: Ngu cầm đàn của vua Nghiêu Thuấn.

– Ước có cây đàn của vua Thuấn, gảy khúc Nam phong để mong đất nước có vị vua anh minh, dân có cuộc sống no đủ, hạnh phúc.

– Lấy hình ảnh vua Nghiêu, Thuấn làm gương răn mình để bộc lộ chí hướng cao cả, khát khao đem tài trí để phục vụ cho dân, cho nước.

– Câu kết (câu lục ngôn) nhịp 3/3 thể hiện được cảm xúc dồn nén, tấm lòng ưu ái với dân, với nước của tác giả.

– Những điều ước của tác giả nhằm hướng đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Ông ước gì lúc này có được trong tay cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nổi lên niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ. Ẩn giấu đằng sau lời ước mong ấy là sự trách móc nhẹ nhàng mà nghiêm khắc bọn quyền thần tham bạo ở triều đình đương thời không còn nghĩ đến dân, đến nước. Theo ông, với cảnh nước non tươi đẹp cùng nhân dân chất phác, siêng năng, cuộc sống lẽ ra phải được trở lại ấm no, hạnh phúc từ lâu.

=> Tác giả là người không những có lòng yêu nước, thương dân mà ông còn yêu thiên nhiên tha thiết, Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nỗi niềm dân nước, ông tìm thấy ở thiên nhiên cỏ hoa xinh tươi kia một nguồn thi hứng, nguồn động viên, an ủi và khích lệ đáng quý đối với bản thân. Điều đó góp phần tạo nên cốt cách của Nguyễn Trãi, bậc trượng phu – chính nhân quân tử – hiên ngang như cây tùng, cây bách trước giông bão cuộc đời.

V. Các đề văn mẫu

 

Soạn bài Đọc hiểu Gương báu khuyên răn sách văn 10 cánh diều tập 2

Đề bài: Phân tích bài Gương báu khuyên răn

Bài tham khảo 1

Niềm tự hào lớn nhất của con người Việt Nam ta có lẽ là tấm lòng yêu nước, thương dân và yêu thiên nhiên, cuộc sống. “Gương báu khuyên răn” của Nguyễn Trãi là tác phẩm tiêu biểu thể hiện tình yêu thiên nhiên, quê hương đất nước của tác giả và khát khao cháy bỏng về một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Từ đó rút ra nhận thức và bài học cho chính mình về sứ mệnh cao cả với đất nước.

Câu câu thơ đầu nói về tâm trạng an nhàn, thảnh thơi  của tác giả khi ngắm nhìn thiên nhiên tươi đẹp:

Rồi hóng mát thuở ngày trường

Mở đầu bằng tâm thế thư thái tận hưởng cảnh sắc thiên nhiên, gạt bỏ hết bụi trần, hòa hợp với hoa lá cây cỏ. Câu thơ nhẹ nhàng, êm dịu như chính con người ông. Từ “Rồi” nối tiếng bằng từ “ngày trường” khiến cho nhịp thơ trở nên chậm dãi, thời gian dường như dài thêm, tâm trạng trong lòng cũng cứ thế mà ngân dài. Và từ đó ông cũng cảm nhận được không gian thiên nhiên hùng vĩ rõ nét hơn.

Không dừng lại ở đó, ông cho người đõ thấy được vẻ đẹp đặc trưng của cảnh ngày hè:

Hòe lục đùn đùn tán rợp gươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tiễn mùi hương

Rời xa trốn quan trường, Nguyễn Trãi để mặc cho tâm hồn mình hào cùng với thiên nhiên tươi vui, cuộc sống yên bình nơi quê nhà. Ông diễn tả cảnh sắc với tâm thế ung dung, các từ “đùn đùng”, “giương”, “phun”, “tiễn” khiến ta cảm nhận được sức sống tươi mới ngập tràn ẩn chứa bên trong cảnh vật tạo nên sức choáng ngợp ấn tượng mạnh mẽ.

Màu xanh của hoa hòe lan rộng, màu đỏ của hoa lựu tỏa ngát hương, màu hồng của hoa sen vàng lấp lánh nức mùi hương nồng say, tất cả những điều đó hòa quyện lại tạo nên cảnh sắc đặc trưng của cuối hè. Bức tranh thiên nhiên không chỉ mang màu sắc nhẹ nhàng mà còn bừng ên sức sống mãnh liệt của các loài cây. 

Ngoài thị giác, Nguyễn Trãi còn thưởng thức thiên nhiên bằng cả thính giác để tận hưởng được trọn vẹn vẻ đẹp vĩnh hằng nơi quê hương thanh bình:

Lao xao chợ ca làng như phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương

Nếu đã có họa, có hương thì dễ gì bỏ sót đi những âm thanh sáo động của đời thường. Thiên nhiên đầy màu sắc không chỉ có vẻ đẹp của cây cối, hoa lá mà còn có cả tiếng “lao xao” của phiên chợ, đó là tiếng cười nói, trò chuyện của người mua, kẻ bán. Tiếng “dắng dỏi  cầm ve” kêu inh ỏi cũng là âm thanh quen thuộc mỗi ngày hè. Âm thanh yên bình nhưng vẫn rộn ràng, náo nhiệt đầy hối hả tạo nên sức hấp dẫn khiến nhà thơ say đắm.

Dù đã cho bản thân nghỉ ngơi, thư giãn nhưng ông không quên được sứ mệnh cao cả của mình. Từ vẻ đẹp thiên nhiên, ông vẫn lo nghĩ cho vận mệnh của đất nước. Ông ước mong rằng mình có chiếc đàn của vua Ngu Thuấn trong tay để có thể cầu mong cho nhân dân có được cuốc sống sung túc, hạnh phúc:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếngDân giàu đủ khắp đòi phương

Nỗi niềm đầy tâm tư đầy suy nghĩ với một tình yêu lớn lao, tình yêu với dân, với nước. Nguyễn Trãi nổi tiếng là vị anh hùng vang danh lừng lẫy trong lịch sử chiến đấu giặc ngoại xâm của dân ta, bởi lẽ thế mà ông thấm thía được hoàn cảnh của đất nước. Ông đã sử dụng điển tích chiếc đàn của vua Ngu Thuấn để bày tỏ nỗi lòng của mình. 

Với lời thơ giàu cảm xúc, Nguyễn Trãi đã cho chúng ta thấy ông là một nhà văn đa tài. Nhưng cuộc đời thường phụ tấm lòng của người tài, cuộc sống của ông thường gặp nhiều khó khăn, trắc trở. Điều đó lại không làm nản lòng thi sĩ mà đó là điểm tựa cho ông suy nghĩ thấu đáo, lạc quan hơn về cuộc sống.

Nguyễn Trãi đã thành công miêu tả được vẻ đẹp sống động của thiên nhiên qua tác phẩm “Gương báu khuyên răn”, từ đó ông gửi gắm khát vọng thầm kín của mình về một đất nước không còn chiến tranh, đau khổ. Ông chính là một tấm gương sáng cho mọi thế hệ đời sau noi theo.

Bài tham khảo 2

Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn “Bình ngô đại cáo”.

Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong “Gương báu khuyên răn”. Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.

Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: “Rồi hóng mát thuở ngày trường”.

Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:

“Rồi hóng mát thuở ngày trườngHòe lục đùn đùn tán rợp giươngThạch lựu hiên còn phun thức đỏHồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống.

Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: “đùn đùn”, “trương”, “phun” gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: “Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” (trích “Truyện Kiều”).

Với từ “lập lòe”, tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.

Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. “Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ” với sự kết hợp của động từ “phun” và “thức”- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật.

Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.

Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:

“Lao xao chợ cá làng ngư phủDắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của “lao xao” của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:

“Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếngDân giàu đủ, khắp đòi phương”

Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ.

Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, thông qua bài thơ “Gương báu khuyên răn”, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: “Non nước cùng ta đã có duyên” (“Tự thán”- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước.

Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân trong bài “Gương báu khuyên răn”, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.

1 63 lượt xem