Tác giả tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái) (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái) Ngữ văn lớp 10 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 75 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái) - Ngữ văn 10

I. Tác giả

* Ngô gia văn phái

- Là một nhóm tác giả Việt Nam thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).

- Ngô Chi Thất và Ngô Trân là người đề xướng và dựng nên Văn phái, về sau được mệnh danh là Ngô gia văn phái.

- Ngô gia văn phái gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí (1753 – 1788) làm quan thời Lê Chiêu Thống và Ngô Thì Du (1772-1840), làm quan dưới triều nhà Nguyễn.

II. Đọc tác phẩm Kiêu binh nổi loạn

Ngô gia văn phái

1. Thế tử có người đầu bếp tên là Dự Vũ, vốn là người cơ trí, nói năng rành mạch. Một hôm, thế tử hỏi bên ngoài lòng người ra sao, Dự Vũ đáp: Người kể chuyện là ai?

– Nhà chúa bỏ con cả, lập con út, thiên hạ đều căm ghét, nhất là quân lính lại càng bất bình lắm. Hôm nọ, trong khi tân chúa lên ngôi, theo lệ có ban tiền bạc cho các quân sĩ, nhưng trong quân nhao nhao, có kẻ không chịu nhận tiền ấy. Sau, Quận Huy phải ra lệnh nghiêm cấm, họ mới miễn cưỡng nghe theo, mà trong lòng vẫn còn hậm hực.

Thế tử mừng thầm, đem chuyện ấy bàn với một viên gia thần tên là Gia Thọ. Thọ người làng Bát Tràng, huyện Gia Lâm, cũng là kẻ tinh khôn, hắn nói với thế tử:

– Lòng người như thế, nếu lấy nghĩa khí mà khích động, khiến cho họ một lòng tôn phù, thì việc lớn ắt thành.

Thế tử mừng lắm, bèn sai Dự Vũ làm cơm rượu, mời bọn biện lại trong đám

thân quân tới đánh chén, rồi nói với họ rằng:

– Thế tử chẳng có tội gì, nhưng bị mụ đàn bà ác nghiệt họ Đặng làm mê hoặc tiên chúa, vu tội hãm hại thế tử để cướp ngôi. Còn Quận Huy vốn có chí phản nghịch, lợi dụng vương tử Cán bé dại, dễ kiềm chế, nên hắn mới vào hùa với mụ mà gây ra việc bỏ người này lập người kia, để hắn làm phụ chính cho tiện cái mưu cướp nước của mình. Nay tân chúa bị bệnh nặng, sự nguy biến chỉ trong sớm tối. Không biết rồi đây cơ nghiệp nhà chúa sẽ do ai làm chủ? Ba quân đều là người ở đất “thang mộc” và là binh lính ứng nghĩa, làm nanh vuốt của nhà nước, ai cũng sẵn lòng trung nghĩa.

Nếu anh em còn nghĩ đến cái ơn của nhà chúa nuôi nấng trong hai trăm năm, thì hãy nên một lòng giúp đỡ nhà chúa. Mai đây, nếu trời cho xong việc, tất nhiên sẽ có sách son, khoán sắt lưu truyền muôn đời.

Mọi người đều nói:

– Chúng tôi vẫn có bụng đó, nhưng chưa biết ý vương tử ra sao. Sợ đến lúc ấy nhỡ có điều gì kinh động, người lại quở trách chúng tôi gây việc. Nay vương từ đã ngỏ ý cho biết như thế, thì việc này chắc không khó gì.

Sau đó, họ bèn ngầm đi báo cho nhau, hẹn ngày tụ họp ở chùa Khán Sơn. Lúc quân lính đến hội họp, bàn về việc ấy không ai là không hăng hái. Nhưng họ còn sợ thanh thế Quận Huy, nên chưa biết khởi sự như thế nào cho ổn thoả. Giữa lúc đang bàn bạc như thế, thì bỗng một người đứng phắt lên nói:

–Chỉ sợ anh em không cùng một bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất

quá chỉ thừa dịp cúng cơm sáng xong, đánh một hồi trống trong phủ làm hiệu rồi kéo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!

Mọi người đều reo mừng hưởng ứng và cùng nhìn về phía kẻ mới nói, thì ra đó là viên biện lại của đội Tiệp bảo 5 tên là Bằng Vũ. Gã Bằng Vũ này là người huyện Thanh Chương, Nghệ An, ông cha vốn là công thần đời Lê trung hưng. Về sau tập ấm đã hết, con cháu trở nên nghèo nàn. Bằng Vũ được người làng thuê đi lính thay. Gã người thấp bé, thanh nhã như học trò. Sau khi vào đội Tiệp bảo, nhờ biết dăm ba chữ, gã được làm chân biện lại. Ở kinh, gã thường làm mướn đơn kiện cho người ta, vẫn lừng tiếng là tay điêu toa trong việc xui nguyên giục bị.

Lúc này, Bằng Vũ thủ xướng ra lời bàn đó, cả bọn liền bầu ngay gã làm chủ mưu, giao cho gã đánh trống trước để thúc giục ba quân. Bằng Vũ mạnh bạo nhận lời. Rồi cả bọn cùng nhau uống máu ăn thề. Nhưng họ không dự định ngày nào, chỉ hẹn nhau, hễ nghe hiệu trống của Bằng Vũ thì cùng kéo đến để khởi sự.

3. [...] Bấy giờ, Quận Huy cũng biết tại hoạ sắp xảy ra, liền nói toạc ra ở trong triều rằng:

– Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo.

Các quan nói:

– Lẽ nào lại có chuyện ấy?

Quận Huy bèn đưa ra một tờ khải nói là Huy Bá tố cáo Quận Viêm đang âm

mưu làm phản và xin các quan hãy tra xét để trừng trị. Gặp lúc trời sắp tối, người nhà Quận Huy có kẻ khuyên hắn nên bế tân chúa đi trốn, rồi gọi quân bên ngoài vào bắt bọn gian, có kẻ khuyên hắn nên đưa nghĩa sĩ vào trong phủ để tự vệ... Nhưng Quận Huy đều gạt đi mà rằng:

– Xưa nay, thói đời vẫn hay phao nhảm, chưa chắc việc đó đã có thật. Mà dù có

đi nữa thì cứ để thong thả rồi cũng tra ra, chúng nó trốn đi đằng nào được. Nếu việc gấp quá không thể trị nổi bọn chúng, thì ta đây vâng mệnh của đấng tiên vương, sống thác cũng cam, cần gì mà phải hốt hoảng!

Đêm ấy, Quận Huy ngủ ở trong phủ, cũng chỉ đem theo vài người hầu như mọi ngày, không hề phòng bị gì hết.

Sáng mai, lễ cúng cơm bữa sáng vừa xong, các quan đang sắp lui trào, Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi, chín tiếng trống. Các quan ngơ ngác nhìn nhau.

Quận Huy sai người đóng chặt cửa các, bắt trói Bằng Vũ đem chém. Khi Bằng Vũ đã bị trói rồi, Thuỷ trung hầu bảo Quận Huy rằng:

– Bọn chúng lập mưu này không phải chỉ có một dứa, nếu chém Bằng Vũ thì đảng gian sẽ lọt lưới hết. Chỉ bằng hãy giam nó lại, để tra xét thêm cho tiệt hết mầm loạn. Quận Huy cho là phải, thế là Bằng Vũ không bị giết chết.

Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.

Lúc ấy, cửa các đã đóng, quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.

Quận Huy gọi Quận Châu ra bảo:

– Cậu giữ chức binh phiên, làm sao không biết răn đe chúng nó?

Quận Châu sợ hãi, vâng dạ mà ra.

Quận Huy tự làm tờ khải rằng: “Lí tôi kính khải như sau: Tôi được tiên vương giao cho giúp đỡ nhà chúa. Nay ba quân nổi loạn, làm cho kinh khuyết náo động. Tôi xin vâng lĩnh mệnh chúa, đem quân giết chúng. Nếu dẹp được, ấy là nhờ oai linh của chúa, nhược bằng không dẹp được, tôi cũng xin liều chết để xuống ra mắt tiên vương dưới âm cung.”.

Khải làm xong, Quận Huy giao cho quan xuất nạp dâng trình và xin lấy thanh bảo kiếm của chúa để ra đánh giặc. Khi bảo kiếm tới, Quận Huy quỳ gối lĩnh nhận, rồi lập tức truyền lấy voi để ra trận. Lúc ấy, Quận Châu đang đứng ở phía trái trong cửa các, cách quân lính một bức tưởng, lên tiếng dụ họ rằng:

– Làm lính phải biết lễ phép. Nay tử cung còn quàn ở đây, các người không được làm ồn ào như vậy. Nếu có gì muốn nói, cứ viết một tờ khải đem lại, ta sẽ trình bày giúp.

Quân lính thét lên:

– Cậu cũng định theo Quận Huy làm phản à? Nếu cậu không mở ngay cửa ra, chúng tôi trèo tường mà vào, thì xác cậu sẽ nát như cám!

Quận Châu run sợ, phải mở cửa. Quân lính chen vai xông vào. Quận Huy chống kiểm lên voi, cưỡi ra giữa sân phủ, trỏ ba quân quát:

– Bớ ba quân, các ngươi ở đâu về đấy ngay, không được làm ầm ĩ, ta sẽ chém đầu chúng mày!

Quân lính vốn sợ Huy, thấy hắn cưỡi voi, lại càng khiếp đảm, đều ngồi sụp xuống nghe lệnh, không dám lên tiếng, cũng không dám xông tới. Nhưng chỉ được một lát, bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi. Voi vươn đầu ra húc, quân lính chạy quanh chân voi để tránh cặp ngà. Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ra ném tới tấp, voi co vòi mà gầm, không dám húc nữa. Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây, lại vớ lấy súng để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy. Quân lính thừa dịp dùng luôn câu liêm lôi viên quản tượng xuống đất mà chém. Voi bước lùi trở lại. Quân lính xúm đến vây kín dưới chân voi. Quận Huy lấy mũi lao phóng xuống làm bị thương vài người. Quân lính hãng máu kéo đến càng đông. Lại có một toán ở cửa Tuyên Vũ xông vào, đứng chắn ở đằng sau voi, khiến voi phải đứng yên không thể nhúc nhích. Họ bèn dùng câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ. [...]

Em ruột Quận Huy là Lý Vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thuỷ Quân.

4. Anh em Quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo hò như sấm. Họ kéo nhau vào nhà Tả Xuyên phò thế tử Tông lên phủ đường. Họ kiệu thể tử lên vai, rồi đứng xúm xung quanh, gào lên vui sướng:

– Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều được thấy mặt rồng, cho thoả lòng vui của mọi người!

Trong lúc gấp vội không có kỉ sập, họ phải dùng tạm chiếc mâm vẫn bày cỗ lộc làm ghế, đặt thế tử ngồi lên, rồi tám người kề vai vào khiêng. Chốc chốc, họ lại nâng bổng chiếc mâm lên trên đầu mà đội; đầu mỏi lại hạ xuống vai, rồi vai mỏi lại nâng lên đầu. Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật. Mỗi lần thế tử được nhô lên cao, quân lính lại vỗ tay reo hò vang lên một chặp. Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem mặt chúa, sân phủ đông như họp chợ. Quận Châu phải đem ngọn cờ đuôi báo phất ở giữa sân, rồi khua chiêng thu quân, mãi đến hơn một trống canh mới yên.

Mấy hôm trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy, tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi người đều cho đó là cái điềm thái bình, thánh chúa. Kẻ qua người lại trên đường đều hí hửng nói: “Chúa ta lập rồi!”. Thế rồi, họ truyền miệng nhau mà reo mừng, kinh kì hôm ấy vì thế mà phải nghỉ phiên chợ.

Quân lính đặt chiếc sập ngự ở ngoài phủ đường, các quan đều dìu thế tử lên ngôi chúa. Cuộc lễ mừng xong rồi, các quan mới đem đạo sắc của nhà vua và tờ chỉ của thánh mẫu dụ ba quân về việc phò lập chúa, tới dán ở cửa các. Những tờ ấy đều là tạm thời thảo ra, nhưng được gọi là mệnh lệnh định sẵn. [...]

Lại nói, bọn quân linh tuy đã giết chết anh em Quận Huy, nhưng cơn giận vẫn chưa hả. Phỏ lập thế tử Tông lên ngôi chúa xong xuôi, họ lại kéo đến quỳ ở trước mặt chúa xin phá tất cả dinh cơ của Quận Huy. Chúa ưng lời ngay. Ba quân liền reo lớn:

− Quan cứ lệnh, lính cứ truyền, mau đi phá huỷ dinh Quận Huy, anh em ơi! Chỉ trong chốc lát, nhà cửa của Quận Huy bị phá tan tành, một mảnh ngói cũng không còn. Rồi bọn quân lính càng thừa thế hoành hành. Phàm các quan văn võ hễ ai thuộc bè đảng của Thị Huệ và Quận Huy, cùng những người dự vào việc tố giác vụ án năm Canh Ti, những viên quan hầu mọi ngày có tính nghiệt ngã mà quân lính vẫn ghét, lúc ấy cũng đều bị phá nhà hàng loạt và bị lùng bắt đem giết chết.

Luôn trong mấy ngày, họ làm náo động cả kinh thành. Tông phải hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi. Sau, chúa phải sai người dò xét trong kinh kì, lén đến chỗ họ tụ họp, rồi bắt phứa một người thường dân ở gần đó đem chém để ra oai. Từ đó về sau, việc phá phách nhà cửa mới tạm ngừng, nhưng việc lùng bắt người để giết vẫn chưa dứt.

III. Tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)

1. Thể loại

Tiểu thuyết chương hồi

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

- Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm viết bằng chữ Hán theo hình thức tiểu thuyết chương hồi. Nội dung chính của Hoàng Lê nhất thống chí phản ánh thời kì lịch sử khoảng 30 năm, từ khi Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Gia Long lên ngôi vua (1802). Tác phẩm tái hiện một cách phong phú, sinh động bức tranh xã hội trong thời kì khủng hoảng triền miên, dẫn đến sự sụp đổ của các tập đoàn phong kiến Lê -Trịnh và khí thế quật khởi, tinh thần quyết liệt chống thù trong giặc ngoài của phong trào khởi nghĩa Tây Sơn do Nguyễn Huệ đứng đầu.

- Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn dưới đây thuộc Hồi thứ hai của tác phẩm, kể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đinh Bảo, phế Trịnh Cạn, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự + Biểu cảm

4. Tóm tắt tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)

Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo của đám kiêu binh “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận  đã thể hiện cụ thể, sống động. Điều nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.

Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

 IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)

1. Hành động của đám kiêu binh

Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”.

- “Bằng Vũ vào trong phủ, đánh luôn ba hồi, chín tiếng trống.”

- “Lại nói, quân lính nghe thấy tiếng trống tức thì người nào cũng nhảy nhót hăng hái, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”

- “…quân lính ở bên ngoài không vào được, họ cứ đứng hò reo, quát tháo long trời lở đất.”

- “…bao nhiêu người đang ngồi lại nhao nhao đứng dậy, kéo ập vào trước đầu voi.”

- “Rồi họ lấy khí giới đâm chém túi bụi, có kẻ cạy gạch ngói ở phủ ra ném tới tấp…”

- “Quân lính hăng máu kéo đến càng đông…Họ bèn dung câu liêm móc cổ Quận Huy kéo xuống, rồi đánh đấm túi bụi giết chết ngay tại chỗ.”

....

=> Qua những hành động này ta thấy được sự ngang tàng và hung bạo, không chịu khuất phục của kiêu binh, nhưng cũng đồng thời cho thấy sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm những điều lay chuyển thế lực cầm quyền.

2. Sự bất lực và thất bại của phe cánh Quận Huy

- Quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai.

+ “Quận Huy giương cung định bắn, chẳng may cung bị đứt dây; lại vớ lấy sung để nạp đạn nhưng mồi lửa tịt không cháy”

+ “Em ruột Quận Huy là Lý Vũ hầu Hoàng Lương nghe tin có biến vội vàng chạy bổ vào phủ đường. Nhưng mới đến cửa chùa Báo Thiên thì bị quân lính quát đứng lại, rồi họ vớ luôn gạch đá trên đường đập cho vỡ đầu và vứt xác xuống hồ Thủy Quân”.

3. Cảnh Trịnh Tông lên ngôi chúa có gì đặc biệt

- Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên.

- Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, như “giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút uy nghiêm nào với một vị chúa.

V. Các đề văn mẫu

Đề bài: Phân tích bài Kiêu binh nổi loạn

Bài tham khảo 1

Bất ổn nổi loạn của binh lính đã làm thay đổi bản chất của cuộc chiến. Họ không chỉ là một đám đông, mà là một thế lực mạnh mẽ, xúi giục bởi lòng căm thù, khát trả thù và tình yêu nước. Trong cuộc đối đầu, họ không chỉ giết quận Huy mà còn đe doạ đến quận Châu, chứng minh sức mạnh và sự không hiệu quả của phe thống trị. Đám lính tráng tự phát đã trở thành người chủ chốt, thay đổi hoàn toàn tình thế trong thành Thăng Long. Cuộc nổi loạn không chỉ là cuộc đấu tranh cho quyền lực, mà còn là một bi kịch hài hước của lịch sử, với những nhân vật như Trịnh Tông và Thánh mẫu trôi nổi như bọt nước trên dòng thác lịch sử. Cuối cùng, đoạn văn cũng là một cảnh báo về sự đề phòng trước nanh vuốt của kẻ thù và sự bất lực của phe thống trị trước sức mạnh của đám đông.

Bài tham khảo 2

Đoạn trích “Cuộc Nổi Loạn của Những Chiến Binh Kiêu Hãnh” trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí đã phản ánh một khía cạnh của sự thối nát trong triều đại phong kiến Việt Nam: sự tranh giành quyền lực và xung đột gia đình, tất cả vì lợi ích nhóm, không phải vì quốc gia hay nhân dân.

Trong cuộc chiến, Trịnh Tông đứng trước nguy cơ thất thế, buộc phải kêu gọi sự trợ giúp của mẹ, thái phi họ Dương, để bảo vệ tính mệnh. Đa số kiêu binh ủng hộ Trịnh Tông, vì họ phụ thuộc vào sự sống còn của Tông để giữ chỗ dựa. Các nhân vật như Dự Vũ, Gia Thọ, Bằng Vũ thể hiện sự căm ghét, hậm hực với chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn trả thù và hả giận. Kế sách của Bằng Vũ chỉ ra sự khinh bỉ thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”. Sự can thiệp của quý tộc như Viêm quận công, Chiếu lĩnh bá, Hoàn quận và Thánh mẫu chỉ là vì lợi ích cá nhân, không phải vì quốc gia. Trong tình thế này, phủ chúa trở nên bất lực, kiêu binh nổi loạn và kiểm soát tình hình.

Nổi loạn của kiêu binh là để trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ thể hiện lòng căm ghét và khinh bỉ chúa Trịnh: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”. Sự tàn bạo trong cuộc giết quận Huy chỉ ra sức mạnh của kiêu binh. Quận Huy và Trịnh Tông trở thành những nhân vật hài hước trong tấn bi kịch lịch sử, thể hiện sự suy sụp của triều đại phong kiến. Bằng cách miêu tả cụ thể sự kiện và nhân vật, tác giả tạo nên một bức tranh sống động về thời kỳ này trong lịch sử Việt Nam.

Cuối cùng, cuộc nổi loạn của kiêu binh là minh chứng cho sức mạnh của đám đông trong việc thay đổi cảnh sử. Trịnh Tông, ban đầu chỉ là kẻ ăn theo, nhưng cuối cùng trở thành con rối trong tay kiêu binh. Cảnh chúa Trịnh lên ngôi như một màn hài hước, đưa lên, hạ xuống giống như 'giỡn quả cầu' trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân địa phương, nhấn mạnh sự bất lực của phủ chúa trước sức mạnh của kiêu binh. Thông qua câu chuyện này, tác giả thể hiện sự thối nát của một triều đại và khả năng biến đổi của quốc gia do đám đông.

Đoạn văn miêu tả chi tiết sự kiện, tính cách của các nhân vật, và thể hiện sự hài hước trước tình cảnh suy sụp của triều đại phong kiến. Bằng cách sử dụng ngôn ngữ sống động, tác giả tạo ra một bức tranh sinh động về thời kỳ lịch sử này.

Bút pháp chép sử biên niên không giấu diếm sự mỉa mai và xót xa trước tình cảnh của đất nước, nơi triều đại đang rơi vào sự hủy hoại từ bên trong. Cơn hấp hối cuối cùng của một triều đại bị suy sụp chẳng qua là một màn bi hài của lịch sử?

1 75 lượt xem