Tác giả tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa) (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa) Ngữ văn lớp 10 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 72 lượt xem


Tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo - Ngữ văn lớp 10

Soạn bài Lính đảo hát tình ca trên đảo sách cánh diều 10

I. Tác giả Trần Đăng Khoa

1. Tiểu sử

- Trần Đăng Khoa sinh ngày 26/04/1958, quê ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

- Ông là một nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội, Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam

- Từ nhỏ, ông đã được nhiều người cho là thần đồng thơ văn. Lên 8 tuổi, ông đã có thơ được đăng báo. Năm 1968 khi mới 10 tuổi, tập thơ đầu tiên của ông: Từ góc sân nhà em (tập thơ tiếp theo là Góc sân và khoảng trời) được Nhà xuất bản Kim Đồng xuất bản. Có lẽ tác phẩm nhiều người biết đến nhất của ông là bài thơ Hạt gạo làng ta, sáng tác năm 1968, được thi sĩ Xuân Diệu hiệu đính, sau được nhạc sĩ Trần Viết Bính phổ nhạc (1971).

- Ông cũng được biết đến nhiều với câu chuyện khi mới hơn 10 tuổi đã đề nghị đổi câu thơ 'Đường ta đi rộng thênh thang tám thước' thành 'Đường ta rộng thênh thang ta bước' trong bài thơ Ta đi tới của nhà thơ nổi tiếng thời bấy giờ là Tố Hữu.

- Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975 khi đang học lớp 10 trường phổ thông cấp 3 Nam Sách, quân số tại Tiểu đoàn 691 Trung đoàn 2 Quân tăng cường Hải Hưng. Sau khi thống nhất, việc bổ sung quân cho chiến trường không còn cần thiết nữa, ông được bổ sung về Quân chủng Hải quân, ông cũng từng chiến đấu ở Chiến trường Tây Nam Việt Nam giai đoạn 1978-1979.

- Sau đó ông theo học Trường Viết văn Nguyễn Du và được cử sang học tại Viện văn học thế giới M. Gor-ki thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Nga. Khi trở về nước ông làm biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội.

- Từ tháng 6 năm 2004, khi đã mang quân hàm thượng tá Quân đội nhân dân Việt Nam, ông chuyển sang công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam, giữ chức Phó Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, sau đó là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật Đài tiếng nói Việt Nam.

- Năm 2008, khi Đài tiếng nói Việt Nam thành lập Hệ phát thanh có hình VOVTV (tiền thân của Kênh truyền hình VOV và nay là Kênh truyền hình Văn hóa - Du lịch Vietnam Jouney), ông được phân công làm Giám đốc đầu tiên của hệ này.

- Đến khoảng giữa năm 2011, chức vụ này được chuyển giao cho ông Vũ Hải – Phó Tổng Giám đốc của Đài kiêm nhiệm để ông chuyển sang làm Phó Bí thư thường trực Đảng ủy Đài Tiếng nói Việt Nam VOV. Hiện nay ông là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khóa IX.

- Ông nguyên là Trưởng ban Văn học Nghệ thuật, Giám đốc Hệ phát thanh có hình VOVTV của Đài tiếng nói Việt Nam. Phó bí thư thường trực của Đảng ủy Đài tiếng nói Việt Nam

- Hiện nay, ông giữ chức Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam, Phó chủ tịch Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội

- Ông cũng là Trưởng ban chung khảo, hội đồng giám khảo quốc gia của cuộc thi Viết thư quốc tế UPU tại Việt Nam từ 2016 đến nay, thay cho Phó chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam Nguyễn Trí Huân.

- Ông ba lần được tặng giải thưởng thơ của báo Thiếu niên Tiền Phong (các năm 1968, 1969, 1971), Giải nhất báo Văn nghệ (1982) và Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật (năm 2001)

- Trần Đăng Khoa có một anh trai là nhà thơ, nhà báo Trần Nhuận Minh – tác giả các tập thơ Nhà thơ và Hoa cỏ, Bản xô nát hoang dã, 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh..., từng là Chủ tịch Hội văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Ninh. Một chị gái là Trần Thị Bình, hiện sống ở quê cùng với thân mẫu của nhà thơ. Ông còn có một người em gái tên là Trần Thị Thuý Giang, hiện làm giáo viên tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

2. Sự nghiệp văn học

- Trần Đăng Khoa không có nhiều tác phẩm, và danh hiệu 'thần đồng thơ trẻ' của nhà thơ thời thơ ấu không hề liên quan hay được nối tiếp đến quãng đời về sau khi nhà thơ tham gia nhập ngũ, theo học ở Nga, khi về nước làm biên tập viên, làm báo. Thi hứng một thời không là động lực cho cảm xúc khi tác giả đã cao tuổi.

- Những tác phẩm nổi bật của Trần Đăng Khoa:

+ Từ góc sân nhà em (1968)

+ Góc sân và khoảng trời, tập thơ (1968) gồm 107 bài thơ, tái bản khoảng 30 lần, được dịch và xuất bản tại nhiều nước trên thế giới.

+ Đi đánh thần Hạn (trường ca 4 chương, 1970)

+ Thơ Trần Đăng Khoa (tập 1), tuyển tập thơ 1970

+ Trường ca Trừng phạt, trường ca, 1973

+ Khúc hát người anh hùng, trường ca, 1974

+ Trường ca Giông bão, trường ca, 1983

+ Thơ Trần Đăng Khoa (tập 2), tuyển tập thơ, 1983

+ Bên cửa sổ máy bay, tập thơ (1986), 26 bài thơ

+ Chân dung và đối thoại, tiểu luận phê bình, Hà Nội, Nhà xuất bản Thanh niên, 1998, đã được tái bản nhiều lần. Tác giả cho biết ban đầu đã dự kiến phát hành tập II của tác phẩm này, nhưng hiện đã gộp bản thảo vào phần I để tái bản.

+ Thơ tình người lính biển, đã được Hoàng Hiệp phổ nhạc

+ Đảo chìm, tập truyện-kí, 2000, đến đầu năm 2009 đã tái bản 25 lần

+ Hầu chuyện Thượng đế, đàm thoại văn học, 2015, gồm 80 bài

+ Đảo chìm Trường Sa, tuyển tập thơ văn, 2016

II. Bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo

Đá san hô kê lên thành sân khấu

Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà

Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ

Chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa

Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng

Đá củ đậu bay như lũ chim hoang

Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữuTa bắt đầu thôi.

Mây nước đã mở màn...

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc

Người xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầu

Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc

Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau

Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ

Là bà con xa với bụt ốc đây mà

Thôi lặng yên nghe. Có gì đang sóng sánh

Hoá ra là sư cụ hát tình ca

Cái giai điệu ngang tàng như gió biển

Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi

Đêm buông xuống nhình nhau không rõ nữa

Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời...Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo

Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh

Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ

Và tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được

Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?Trông bốn phía chỉ âm u mây nước

Nào hát lên cho mấy nước biếtRằng chúng ta là những con người

Yêu em thủy chung hơn muối mặn

Dù thư tình chưa biết gửi cho ai...Nào hát lên cho đêm tối biết

Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây

Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót

Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau

Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế

Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu...

III. Tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo

Phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo hay nhất (3 Mẫu)

1. Thể loại

Thể thơ Tự do

2. Phương thức biểu đạt

​​​​​​​Biểu cảm, miêu tả

3. Nội dung chính tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)

Tinh thần lạc quan, tươi trẻ của những người lính hải đảo nơi Trường Sa khắc nghiệt cùng tinh thần yêu nước, hướng về tổ quốc của họ

Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

4. Bố cục tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)Chia văn bản thành 2 đoạn

- Đoạn 1: 4 khổ thơ đầu: Giới thiệu về những người lính đảo.

- Đoạn 2: Còn lại: Bản tình ca những người lính đảo.

5. Giá trị nội dung tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)

- Ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sự lạc quan vui tươi niềm tin mãnh liệt vào cuộc sống của những người lính trên đảo.

- Tình cảm xót thương trước hiện thực khó khăn, thiếu thốn của những người lính ngoài đảo xa

6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)

- Thể thơ tự do vui tươi, rộn ràng, tạo không khí trẻ trung sôi nổi

- Giọng thơ hào hứng, say mê

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo (Trần Đăng Khoa)

1. Giới thiệu về những người lính trên đảo

* Hoàn cảnh

-  Sự đặc biệt của sân khấu: đá san hô kê lên thành sân khấu; Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà 

=> Sự thiếu thốn, khó khăn đặc biệt về vật chất nơi đây.

* Ngoại hình

- Chi tiết thể hiện ngoại hình của người lính đảo:

+Mấy chàng đầu trọc, lính trọc đầu, lính già lính trẻ đều trọc tếu giống những sư cụ là bà con xa với bụt ốc

=> Ngoại hình ấn tượng với đầu trọc lốc không tóc, càng làm nổi bật sự khó khăn, thiếu thốn về vật chất nơi đây, điều kiện sống nguy hiểm.

* Phẩm chất, tính cách

-  Sân khấu biểu diễn sơ sài, đơn giản.

- Diễn viên, khán giả của màn biểu diễn là một – những người lính đảo

=> Họ tự tạo cho nhau việc làm, tạo niềm vui giải trí với nhau để vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương.

- Khung cảnh biểu đảo, gió cát, sóng to dữ dội vài giờ xuất hiện nơi đây khiến người ta chỉ muốn chạy trốn

- Nhưng những người lính đảo lại lạc quan đương đầu với nó, tự tạo niềm vui cho mình.

=> Họ là những con người không đẹp về ngoại hình nhưng nội tâm của họ lại phong phú, tươi đẹp. Tâm hồn họ tràn đầy sự lạc quan, niềm vui, tinh thần bất khuất.

2. Bản tình ca của những người lính đảo

- Điều đặc biệt ở bản tình ca của lính đảo:

+ Có giai điệu ngang tàn như gió biển, lời ca toàn những nhớ nhung và yêu thương.

+ Lời hát của họ rì rào trong không gian, như những tiếng vỏ ốc vang vọng ngoài biển khơi.

+Lời hát của họ giống như một câu chuyện kể dịu êm với những điều lãng mạn: đêm trang, hàng cây xanh, tay nắm tay.

- Nghệ thuật:

+ Biện pháp so sánh: Giai điệu của người lính ngang tàn như gió biển/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn

+ Biện pháp nhân hóa: Vỏ ốc cất thành lời

+ Điệp cấu trúc: Nào hát lên/ Rằng...

=> Thể hiện hình tượng người lính đảo: Họ là những con người lạc quan và đầy mơ mộng với cuộc sống.

V. Các đề văn mẫu

Dàn ý phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo (3 Mẫu)

Đề bài: Phân tích bài Lính đảo hát tình ca trên đảo

Bài tham khảo 1

Một loạt bài thơ của Trần Đăng Khoa viết về biển đảo và người lính được bạn đọc hoan nghênh đón nhận như: Tự tình người lính biển, Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn, Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài,... và đây là thi phẩm Lính đảo hát tình ca trên đảo. Bài thơ góp một giọng điệu rất riêng, vừa tươi vui, hóm hỉnh nhưng cũng cảm động, sâu lắng về cuộc sống của người lính nơi đảo xa. Nhờ đó, tác phẩm neo vào lòng người sâu sắc, bền chặt suốt mấy chục năm qua.

Khổ đầu trong bài thơ được Trần Đăng Khoa miêu tả sự khắc nghiệt về thời tiết nơi quần đảo Trường Sa nhiều nắng gió. Cái sân khấu dựng lên giữa trời biển bao la ấy phải kỳ công và độc đáo lắm mới chịu nổi cái gió như quăng quật, tấp tấp vào mặt con người. Sân khấu kê lên từ đá san hô biển, cánh gà phải dựng bằng tôn, tất cả đều tạm bợ thế thôi, vì không có phông màn nào chịu nổi thông thốc của gió trời biển đảo:

Đá san hô kê lên thành sân khấuVài tấm tôn chôn máy cánh gàEm đừng trách bọn chúng anh tạm bợChẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa.

Nhưng sự thú vị nhất lại nằm ở khổ thơ thứ hai. Ở đây có sự đối lập giữa cái khắc nghiệt của thiên nhiên và sự dũng cảm, lạc quan của người lính. “Gió rát mặt”, “sỏi cát bay như lũ chim hoang”, thuỷ triều xuống lên liên tục khiến cho đảo cũng thay hình đổi dạng không ngừng. Quả là một vùng đất đầy gian nan, thử thách đối với người lính. Tuy vậy, người lính vẫn hiên ngang, lãng mạn và hào sảng:

Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dángSỏi cát bay như lũ chim hoangCứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữuTa bắt đầu thôi. Máy nước đã mở màn...

Từ “mây nước mở màn”, hình tượng người lính đảo hiện lên thật độc đáo, tếu táo qua hình dáng bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn, nhờ đó đã giúp cho Trần Đăng Khoa có được một giọng thơ hóm hỉnh, bông đùa nhưng tạo được cảm xúc sâu lắng trong lòng người đọc.

Cuộc sống trên đảo Trường Sa khắc nghiệt, gian khổ “đến một cái cây cũng không sống được”, thành ra người lính cũng phải chấp nhận để thích nghi với môi trường. Thiếu thốn đủ thứ, trong đó có nước ngọt, vì vậy phần lớn họ phải cạo trọc đầu cho đỡ rít khi không có nước ngọt gội tóc, thành ra “lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau”. Đọc đến đây, hẳn chúng ta không thể quên hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, cũng tếu táo và có vẻ “bặm trợn” khác thường giữa cuộc sống núi rừng miền Tây Bắc khắc nghiệt: “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc / Quân xanh màu lá dữ oai hùm”:

Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọcNgười xem ngổn ngang cũng... rặt lính trọc đầuNước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tócLính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau.

Họ gọi đùa nhau là “sư cụ”, là “bà con xa với bụt ốc”, thế hoá thành vui nhộn vì cảnh tượng “sư cụ hát tình ca” mới đưa duyên và “sóng sánh” làm sao! Quả vậy, chính cuộc sống gian nan giữa nước trời thăm thẳm ấy, hình tượng người lính Trường Sa hiện lên thật lãng mạn và hào hoa. Họ hát tình ca trên đảo với biết bao tâm trạng và cảm xúc trào dâng: Khát khao một tình yêu cháy bỏng, bày tỏ sự nồng nàn và chung thuỷ thiết tha.

Cái giọng tình ca ở đây cũng thật kì lạ, cứ “ngang tàng như gió biển” nhưng lời lẽ tình tứ không chê vào đâu được, bồi hồi bỏng cháy “toàn nhớ với thương thôi”. Có lẽ chính những năm tháng sống cùng đồng đội nơi biển cả bạc trùng, nơi đảo nổi, đảo chìm của Tổ quốc giúp Trần Đăng Khoa có được chất liệu hiện thực chân thật và sâu sắc đến thế. Đọc thơ, người đọc không chỉ hiểu thêm về cuộc sống người lính Trường Sa mà còn để trái tim mình cảm thông và rưng rưng xúc động. Chính cái giọng phớt đời, tưng tửng lại là chỗ xót xa và lấy nhiều nước mắt của người đọc:

Cái giai điệu ngang tàng như gió biểnNhưng lời ca toàn nhớ với thương thôiĐêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữaCứ ngỡ như vỏ ốc cất thành lời...Rằng có đêm trăng dắt em đi dạoGương mặt em dịu dàngHàng cây cũng tươi xinhMở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗVà tay mình lại nắm lấy tay mình.

Hóm hỉnh nhất là khổ thơ với các câu hỏi tu từ tự vấn về người yêu của người lính đảo. Họ hát tình ca, yêu đắm say và nhớ thương tha thiết chỉ qua tưởng tượng, thành ra họ hình dung về người yêu của mình cũng có năm bảy đường khác biệt. “Các em ở phương nào?”, “Các em cao hay thấp?” Xót xa nhất là bóng dáng nào sẽ đến với các anh như một câu hỏi xoáy sâu vào lặng lẽ, vào thăm thẳm ruột gan mong chờ khao khát mỗi khi đêm về trông ra chỉ bốn bề mây nước âm u:

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?Các em cao hay lùn? Có trời mà biết đượcBóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?Trông bốn phía chỉ âm u mây nước.

Lãng mạn, hào hoa là thế, nhưng chất lính, sự kiên cường và dấn thân của người lính mới chính là vẻ đẹp cao cả về lòng yêu nước. Hát tình ca để khẳng định tình yêu thuỷ chung, khẳng định chủ quyền đất nước. Nhà thơ không nói hết, nhưng đó là tiếng nói phản kháng chiến tranh, là tiếng nói nhân văn sâu sắc. Cao hơn, hình tượng người lính đứng giữa trời nước bao la bảo vệ chủ quyền thiêng liêng cho Tổ quốc chính là trách nhiệm lớn lao, thiêng liêng không gì sánh được:

Nào hát lên cho đêm tối biếtRằng tình yêu sáng trong ngục ta đâyTa đứng vững trên đảo xa sóng gióTổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này.

Đến cuối bài, giọng điệu và hình ảnh thơ vẫn sống động, hóm hỉnh và tếu táo mang đậm phong cách thơ Trần Đăng Khoa. Hình ảnh “toàn những đá trọc đầu” khi thuỷ triều vừa rút như một kết thúc bất ngờ và ám ảnh. Đó là cả một sự quan sát, một phút xuất thần để có những câu thơ hay:

Điệu tình ca cứ ngân lên chót vótBỗng bàng hoàng nhìn lại phía sauNgoài mép biển, người đâu lên đông thếÔ, hoá ra toàn những đá trọc đầu....

Bài tham khảo 2

Nếu nói những con chữ là tinh hoa nghệ thuật thì những thi nhân chĩnh là những nhà nghệ sĩ. Họ dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh tuyệt đẹp. Trần Đăng Khoa chính là một nghệ nhân như vậy. Qua bài thơ Lính đảo hát bài ca trên đảo, những cảnh vật, con người xuất hiện lung linh. Vẻ đẹp ấy càng tôn lên được ý nghĩa của việc họ đang làm, của nhiệm vụ thiêng liêng canh giữ nói đất đảo. Hình ảnh của những người lính được ông khai thác dưới một góc nhìn vừa thơ mộng, vừa thể hiện được hết sự khó khăn của cuộc sống nơi hải đảo xa xôi.

“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạngSỏi cát bay như lũ chim hoangCứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữuTa bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”

Ngay đoạn mở đầu, người đọc đã thấy được hết những cái khắc nghiệt của hải đảo. Nơi đây chỉ thấy nắng và gió, đảo theo dòng nước mà luôn thay đổi hình dáng. Trên nền khung cảnh tưởng chừng như chẳng thấy điểm cuối ấy, chim hoang vẫy cánh làm cảnh vật càng thêm tiêu điều. Mỗi ngày, cuộc sống con người nơi đây đều phải chịu sự vất vả ấy. Nhưng chính do đó, họ dần quen thuộc và bình thản trước những sóng gió ấy. Trên nền cảnh vật xơ xác, sự mãnh liệt và quyết tâm của những người lính làm sáng lên cả bức tranh chỉ toàn gam màu vàng và xanh. Họ lạc quan, cổ vũ nhau tiến bước về phía trước mặc cho sự vất vả vây quanh. Với họ, có lẽ chỉ cần có “chiến hữu” thì chẳng còn khó khăn mà chỉ có niềm vui và những điều thú vị. Hình ảnh so sánh mây nước như một buổi biểu diễn, màn ấy là một sân khấu lơ lửng giữa đất trời. Đó là một cách liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị của tác giả.

“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọcNgười xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầuNước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tócLính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhauNhững lúc vui cứ gọi đùa sư cụLà bà con xa với bụt ốc đây màThôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánhHóa ra là sư cụ hát tình ca”

Những câu thơ tiếp theo đây vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên vùng hải đảo. Không chỉ gò cát làm hoạt động những người lính khó khăn, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh ai nấy đều trọc đầu, kể cả già trẻ đều như nhau. Đó chính là do họ tự cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong khi vệ sinh cá nhân. Bởi nơi đây, thứ hiếm hoi và cần tiết kiệm nhất chính là nước ngọt. Quanh đảo đều là nước, nhưng đó đều là nước biển mặn chát không thể sử dụng được. Thứ những người đất liền chúng ta không coi trọng, lại được những con người ở đó quý trọng đến từng giọt nhỏ. Để làm dịu đi bầu không khí nặng nề ấy, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ, hình ảnh hài hước. Đó là câu nói những người lính đầu trọc trông thật “tếu” và đùa vui so sánh họ với hình ảnh “sư cụ”. Sự đoàn kết của những người lính không chỉ còn là đồng chí, họ là những người anh em cũng chung hoạn nạn, là những người như một gia đình. Và cuối đoạn, bài ca ngân lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sự quyến rũ khi người và vật hòa quện vào nhau, khi thiên nhiên đàn, biển tấu và con người ngân nga khúc tình ca.

“Cái giai điệu ngang tàng như gió biểnNhưng lời ca toàn nhớ với thương thôiĐêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữaCứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…

Rằng có đêm trăng dắt em đi dạoGương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinhMở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗVà tay mình lại nắm lấy tay mình

Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?Các em cao hay lùn? Có trời mà biết đượcBóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?Trông bốn phía chỉ âm u mây nước

Nào hát lên cho mấy nước biếtRằng chúng ta là những con ngườiYêu em thủy chung hơn muối mặnDù thư tình chưa biết gửi cho ai…

Nào hát lên cho đêm tối biếtRằng tình yêu sáng trong ngực ta đâyTa đứng vững trên đảo xa sóng gióTổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”

Giọng hát như con người, những người lính cất giọng được miêu tả là ngang tàng,đúng chất những người chiến sĩ. Tuy nhiên giai điệu họ đang ngâm lại là những khúc tình ca lãng mạn toàn nhớ với thương. Lời ca ấy thể hiện sự yêu đời, lạc quan, cũng là niềm khao khát về một tình yêu của những người lính trẻ. Trong đêm ấy, tạm bỏ hết những gánh nặng trên vai, họ cũng chỉ là những chàng trai qua đôi mươi đầy khao khát, mong chờ. Những hình ảnh tiếp theo là sự ao ước về một viễn cảnh hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như chìm vào đó với biển đảo, những sự vật nơi đất biển. Hai câu thơ cuối, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió

Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ vẫn đứng đó để bảo vệ từng tấc đất. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn cũng là khởi đầu từ sự yên bình nơi hải đảo xa xôi.

“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vótBỗng bàng hoàng nhìn lại phía sauNgoài mép biển, người đâu lên đông thếỒ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”

Sau đoạn ngân lên đầy những cảm xúc, tác giả cũng thăng hoa trong những con chữ bay bổng. Bỗng “bàng hoàng” nhìn lại, như có gì kích động tác giả. Hóa ra đó là những “đầu trọc” của đồng đội, như đưa mọi người về lại hiện thực và trách nhiêm của mình. Tuy nhiên, khi đọc đến đây, người đọc lại chẳng cảm nhận được sự khó chịu của những người lính. Họ cam tâm làm tất cả vì Tổ Quốc thân yêu.

Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Đó là những con người vừa dũng cảm, vừa mang trong mình tinh thần và tình yêu tha thiết. Cách trang giấy mà ta vẫn có thể hình dung được những người ấy, đẹp đẽ và nên thơ đến vậy!

1 72 lượt xem