Tác giả tác phẩm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) Ngữ văn lớp 10 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 126 lượt xem


Tác phẩm Mắc mưu Thị Hến - Ngữ văn lớp 10

Soạn bài Mắc mưu Thị Hến | Hay nhất Soạn văn 10 Cánh diều

I. Đọc văn bản Mắc mưu Thị Hến

LỚP 19 [.....]

NGHÊU: Trời tăm tối đi hầu bổ ngửa,

Cây bụi bờ rờ chẳng ra đường.

(Này! Này! Thím ơi! Mỗ đã sang. Mở cửa mình vào với!)

THỊ HÊN: Chào thầy mới tới,

Trà nước vội vàng.

Đành lòng đây đó giao duyên,

(Nhưng) Sợ nỗi thế gian đàm tiếu (thôi).

NGHÊU: Vốn đà trước liệu, Lựa phải sau lo.

Kệ kinh chuông mõ trả cho chùa, 

Cảy, cấy, đâm, xay đành phận mỗ. 

(Này này!) Khuyên cùng với đó,

Chớ khá phụ đây.

Tuy làm vầy cũng tiếng ông thầy, 

Ở như vậy uổng tài bà goá.

(Tiếng Đề Hầu kêu cửa)

THỊ HỂN: (Ủa!) Tiếng ai kêu chỉ lạ?

Hay thầy Lại tới đây?

(Này! Này! Mô Phật!)

Đi ra kẻo tội với thầy,

Ở đó ắt tại trước mắt! (Chớ chẳng chơi đâu.)

NGHÊU: (Trời trời!)

Lão Để lại làm chi quá ngặt? 

Khiến thầy tu chạy đã hầu điên. (Thím ơi! Thím)

Trốn chỗ nào khác chỉ cho min

(Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó!

THỊ HẾN: Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó. 

(Để tôi) Ra ngõ mời người đặng vào đây. 

Dầu chuyện chỉ chịu khó một giây. 

(Để) Người về đã, sẽ vầy( hai mặt.

(Nghêu chui xuống gầm phản, Đề Hầu vào) 

Lại nói: (Thưa thầy!)

Nghe kêu lật đật,

Mở cửa vội vàng, Thỉnh lại gia trang

Sẽ bày tình tự.

ĐÈ HẦU: Ơn mỗ cứu cho bữa trước,

Nay nường còn nhớ chưa quên? 

Sao đã cùng ông Huyện kết duyên, 

Mà vội phụ thầy Để tình ngãi (hử)?

THỊ HÊN: Xin thầy hãy nghĩ lại,

Quan Huyện dạy, (tôi) phải vâng. 

Đành đôi ta là cái duyên hằng

(Thế mà) Không nghe đó, sao cho yên việc (a thưa thầy?)

ĐÈ HẦU: (Phải lắm! Thế mới biết)

Đèn không khêu không tỏ,

Chuông không đánh không kêu. (Ta nói thiệt)

Đó không thương đây cũng quyết liều, (

Chừ Duyên đã khẳn nường tua giữ dạ.

THỊ HÉN: Ân ái việc còn thong thả,

Rượu trà xin hãy vui chơi! 

Chẳng mấy khi đặng hiệp một nơi, 

Bây giờ đã gặp nhau hai mặt. 

(Chừ có việc này)

Tôi xin hỏi thiệt, thầy khá tỏ bày! 

Thầy hằng xem luật lệ xưa nay,

Tu (mà) phá giới, tội chi khinh trọng (thưa thầy?)

ĐÈ HẦU: Lỗ tai nghe quá chướng,

Trong luật lệ rất to,

Hễ phá giới tức hành trảm quyết!

(Huyện Trìa tới)

HUYỆN TRÌA: (Nói ngoài cửa)

Viên ngoại diễu văn tế thuyết, 

Môn tiền hữu ngã quan nhơn

Mở cửa ra! Mau tiếp đại tân!

Ở mụ! Kíp kíp ra mời quan Huyện (nào!)

ĐỀ HẦU:

(Chui chao!)

Văn ngôn sắc biến! Sắc biển! 

Thính thuyết hồn kinh! Hồn kinh 

Nếu mà ông Huyện tri tình, 

Chắc hẳn thầy Đề mang khổ!

(Đề Hầu trốn, ông Huyện vào)

HUYỆN TRÌA: Việc thuế má án từ quá gấp, 

Đêm tối tăm đảng xá (lại) khó đi. 

Tưởng mụ đà tới lúc ngủ khì, 

Làm mỗ chạy ướt hầu bổ sấp. 

Khi sớm, tối đợi mình lâu lắm, 

Từ rày xin tới mụ cho liên, 

Gẫm đà phải nợ phải duyên,

Thôi chớ làm hờn, làm giận (nữa mà!)

THỊ HÊN: Nghĩ mà tủi phận,

Đâu dám trách ai,

(Nhưng tôi nghĩ lại như ông) 

Vợ còn, con sẵn, thiếu chi,

(Mà buộc tôi không đặng?)

Trai quá gái không thường lệ,

(Tôi cũng) Cam phận thiếp muối trường cơm tẻ, 

(Nhưng mà tôi)

E chánh thê cả tiếng nhiều lời (đó thôi!)

(Cho nên tôi)

Lánh một xó, lọ một nơi,

Khó trối thây, giàu ai chẳng luy!

HUYỆN TRÌA: (Ui chao! Chử!)

Ta nghỉ ngơi kéo mệt,

Nói dài lắm cũng buồn.

Khuyên khuyên xin chớ làm tuồng, 

Bớt bớt xin đừng nói bơm!

THỊ HẾN: Sợ gan ruột đàn ông nhiều lớp, 

Việc nợ duyên dễ thiếp mấy nơi?

Rượu trà hãy xin mời,

Ái ân rồi có đó.

(Bây giờ tôi xin nhờ quan)

Vốn tôi chưa rõ,

Xin hỏi một lời:

Người từng xem luật lệ nơi nơi,

(Là) Có một việc ở đời lạ lạ.

Rầy có chú thầy tu rất chạ),

Hay tới nhà mà ve bà goá,

Đã xuất gia, phá giới làm vợ), 

Thời luật pháp xử chỉ cho rõ?

HUYỆN TRÌA: (Uẩy!)

Nói làm chỉ việc rối, Ai có tiếc làm chi.

Phàm tu hành mà đã xuất gia, 

Có phá giới đánh đòn phát lạc!

NGHÊU: (Từ gầm giường bò ra)

Tâm khoái lạc! Tâm khoái lạc!

Thiện xử phân! Thiện xử phân!

(Bẩm quan lớn, lời quan dạy rất minh, chớ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ! Bẩm quan lớn!)

Chơn vi phụ mẫu chi dân! 

(Chứ thầy Đề)

Chỉ thị dâm ô chỉ loại 

Như thầy tu phá giới, 

Thời bất quá đánh đòn. 

Còn thầy Lại phạm gian, 

Thật ắt là tội chết.

ĐỀ HẦU: (Lồm cồm bò ra)

 Đầu đuôi tại mụ Hến, 

Mưu mẹo bởi lão thầy tu

Rày quan Huyện trớ trêu 

Mắc đàn bà quá tội. T

ôi cam chịu lỗi, 

Ai biết mà chê!

Trong nha môn cả Huyện đến Đề, 

Còn tạo lệ không mời luôn thể!

HUYỆN TRÌA: Thầy Lại làm nên quá tệ, 

Như nhà sư bắt chước cố trêu.

 Mắc cỡ lêu lêu!

Lêu lêu mắc cỡ!

Rất nên quái gở,

Làm việc lăng nhăng! 

Hễ miếng to bay quyết kiếm ăn, 

Còn đồ vặt bay làm sạch trụi. 

Thầy tu khá lui về cho khỏi, 

Đề lại mau cõng mỗ về nhà. 

Dằn lòng thôi chớ ngứa nghề, 

Giữ dạ dừng tham của lạ.

(Hạ)

THỊ HẾN: Tâm khoái dã! 

Tâm khoái dã! Kế hoạn nhiên! Kế hoan nhiên! 

Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên, 

Rày quan Huyện hết đến nhà làm bậy. 

Giữ tiết hạnh một niềm cho toại, 

Nỗi nhơn duyên đôi chữ không màng.

II. Tác phầm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

1. Thể loại 

Tuồng

- Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói tật trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa.

- Đây là tác phẩm tiêu biểu nhất trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Kỳ chỉnh lí (1957) gồm có tất cả 3 hồi.

3. Tóm tắt tác phầm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

Thị Hến đã hẹn Nghêu tối đến nhà, nhưng lại cho mời cả Huyện Trìa và Đề Hầu cùng đến. Thị Hến dùng mưu dụ cả ba cùng xuất đầu lộ diện và bị một phen bẽ mặt.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phầm Mắc mưu Thị Hến (Trích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến)

1. Bối cảnh đoạn trích

- Không gian và thời gian trong đoạn trích Mắc mưu Thị Hến là không gian hẹp chỉ có từ nhà thị Hến ra đến cửa khi có người đến, thời gian là trời tăm tối.

2. Yếu tố tạo nên tiếng cười

- Yếu tố tạo ra tiếng cười trong đoạn trích trên xuất phát từ ngôn ngữ hành động của nhân vật Nghêu, Nghêu được biết đến là ông bói mù, với những câu nói hài hước, tếu táo.

- Nghêu đến nhà Thị Hến để tán tỉnh nàng nhưng chưa kịp làm gì thì thấy Đề Hầu gõ cửa đến. Khi ấy lão sốt vó lo lắng, hoang mang, sợ hãi đã nhanh chóng để tìm chỗ trốn “Trốn chỗ nào khác chỉ cho min/ (Chớ) Ra cửa có thầy Đề đứng đó! Sợ bị phát hiện Nghêu đã chui xuống gầm phản nhà Hến.

=> Hành động của kẻ nhút nhát, sợ sệt. Nhưng rồi khi nghe Huyện Trìa nói về việc “Phàm tu hành mà đã xuất gia/ Có phá giới đánh đòn phát lạc” thì Nghêu đã chui từ gầm phản ra và thay đổi bộ mặt vui vẻ để lấy lòng, còn nịnh hót khen những lời của Huyện Trìa là đúng đắn khác hoàn toàn so với lúc đầu khi Đề Hầu đến, Nghêu đã lật mặt thay đổi cảm xúc tuy vẫn còn run sợ nhưng hắn lại ngon ngọt.

=> Tác giả đã rất thành công trong việc dùng ngôn ngữ hành động để tạo tiếng cười.

3. Ý nghĩa

- Thể hiện thái độ phê phán, châm biếm với các nhân vật qua các hành động, ngôn ngữ.

- Tác giả phơi bày cho ta thấy những thói hư tật xấu, bộ mặt tham lam giả dối, hèn nhát với những dục vọng tầm thường của tầng lớp cường hào ác bá phong kiến.

- Còn đối với Hến - người đàn bà góa ta lại thấy trong cô có sự khao khát được hạnh phúc, được bảo vệ, Hến trẻ trung, thông minh có, xinh đẹp nhưng trong mắt mọi người nàng lại lẳng lơ, điêu ngoa.

=> Tất cả đã được tác giả dân gian khắc họa đầy đủ diện mạo bức tranh làng quê phong kiến buổi suy tàn.

IV. Các đề văn mẫu

Soạn văn 10 trang 68 Cánh diều - Tập 1

Đề bài: Phân tích bài Mắc mưu thị hến

Bài tham khảo 1

Trong vở tuồng 'Nghêu, Sò, Ốc, Hến', nhân vật Thị Hến được tạo hình như một người phụ nữ thông minh, sắc sảo. Cô là một người góa chồng và luôn khao khát có một cuộc sống hạnh phúc. Tuy nhiên, khi cô nhận ra rằng có những người đến gần với mục đích xấu, Thị Hến không chần chừ mà bày mưu tính kế để làm lộ tẩy bộ mặt xấu xa của họ.

Tính cách của Thị Hến được thể hiện qua cách hành văn của tác giả. Cô là một người thông minh và mưu trí, đã dùng sự khôn khéo để gài bẫy cho ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu và thầy Nghêu. Khi đối mặt với những người có tiếng, Thị Hến không chỉ không sợ hãi mà còn thể hiện sự kiên cường và bản lĩnh. Cô không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, mà còn là người có tầm nhìn xa hơn, biết bảo vệ và coi trọng phẩm hạnh của bản thân.

Nhân vật Thị Hến đóng vai trò quan trọng trong việc vạch trần bộ mặt xấu xí của một bộ phận trong xã hội xưa. Qua nhân vật này, tác giả dân gian đã tuyên dương và đề cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Thị Hến không chỉ là một người thông minh mà còn là biểu tượng cho sự sắc sảo và khôn ngoan. Cô đã giúp chúng ta thấy được bộ mặt thật của ba nhân vật Huyện Trìa, Đề Hầu và thầy Nghêu, những người đắc tội và đầy tật xấu. Từ đó, chúng ta nhận thấy tầng lớp cường hào ác bá thời phong kiến thật đáng chê trách, và ý thức được sự quan trọng của phẩm chất và tự trọng trong cuộc sống.

Nhân vật Thị Hến được xây dựng qua lời nói và hành động, mang đến sự sống động và hấp dẫn cho vở tuồng. Cô là một hình mẫu đáng tôn vinh, một người phụ nữ thông minh và đáng ngưỡng mộ. Thị Hến không chỉ là một người phụ nữ độc lập và mưu trí, mà còn có khả năng nhìn thấu bản chất của con người và xử lý tình huống một cách khéo léo. Nhân vật này đã làm cho chúng ta nhận ra rằng, một tâm hồn mạnh mẽ và sự thông minh có thể thắng hơn những thế lực xấu xa và ác độc.

Ngoài ra, cách xây dựng nhân vật Thị Hến cũng tạo nên sự hài hước và giải trí trong vở tuồng. Mưu đồ và những lời thoại thông minh của cô đã mang đến những tình huống dở khóc dở cười, khiến khán giả cảm thấy vui vẻ và thích thú. Thị Hến không chỉ là người phụ nữ mạnh mẽ và thông minh, mà còn là một nhân vật giải trí đáng yêu và hấp dẫn.

Từ nhân vật Thị Hến, chúng ta có thể rút ra nhiều ý nghĩa và giá trị. Đầu tiên, cô giúp chúng ta nhận thức rõ ràng về bộ mặt xấu xa của những con người tham vọng và độc ác. Thứ hai, nhân vật Thị Hến tôn vinh phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, khẳng định rằng thông minh và sắc sảo không phải là đặc quyền của giới nam mà còn có thể tồn tại trong giới nữ. Cuối cùng, thông qua cách xây dựng nhân vật Thị Hến, tác giả đã thể hiện nghệ thuật văn chương tinh tế và khéo léo, khiến cho vở tuồng trở nên hấp dẫn và gần gũi với khán giả.

Nhân vật Thị Hến trong vở tuồng 'Nghêu, Sò, Ốc, Hến' là một biểu tượng của sự thông minh, sắc sảo và tư duy nhạy bén. Từ tính cách và hành động của cô, chúng ta có thể nhận thấy ý nghĩa và giá trị của nhân vật này đối với cả đoạn trích và toàn bộ vở tuồng. Thị Hến không chỉ là người giúp vạch trần bộ mặt xấu xí của một tầng lớp trong xã hội, mà còn tôn vinh phẩm chất t

Tầng lớp cường hào ác bá trong xã hội xưa được vạch trần thông qua nhân vật Nghêu, Đề Hầu, Huyện Trìa. Thị Hến là một biểu tượng của sự thông minh và sắc sảo, và cô đã đứng lên để chống lại những thế lực đen tối đó.

Bài tham khảo 2

Khi nhắc tới các vở tuồng hài nổi tiếng, chúng ta không thể bỏ qua 'Nghêu, Sò, Ốc, Hến'. Trong đó, trích đoạn 'Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến' thuộc lớp XIX của vở tuồng đã mang đến những tiếng cười sâu cay, trào phúng về hiện thực xã hội xưa. Thông qua nhân vật Thị Hến, tác giả dân gian cũng khéo léo bày tỏ thái độ đề cao, trân trọng người phụ nữ sắc sảo, thông minh.

Ngay ở phần mở đầu đoạn trích, người đọc đã có hình dung rõ nét về hoàn cảnh nhân vật Thị Hến:

'Dốc thờ chồng suối bạc cho toàn,

Lại bị quỷ nhà chay tới phá.'

Có thể thấy, Thị Hến sống trong cảnh 'chăn đơn gối chiếc'. Thị ở vậy một mình và dốc lòng thờ cúng chồng nơi suối bạc. Thế nhưng, cuộc sống lại chẳng hề bình yên vì có những kẻ bỉ ổi, suy đồi nhân cách tìm đến quấy rầy. Sau khi được tha bổng ở huyện đường, Thị Hến lại bị Sư Nghêu mò tới tán tỉnh. Nhân dịp này, Thị mời cả hai tên chức dịch mê gái là Đề Hầu và Huyện Trìa đến nhà. Bằng sự mưu trí của mình, Thị đã khiến ba kẻ ham sắc bẽ mặt.

Trước hết, Thị Hến vô cùng thông minh, nhanh trí khi tạo ra 'cuộc hội ngộ' giữa Sư Nghêu, Đề Hầu và Huyện Trìa. Cuộc hội ngộ này chính là âm mưu của Thị - khiến ba nhân vật sập bẫy, chịu một phen nhục nhã ê chề.

Trong lúc trò chuyện cùng Sư Nghêu, nghe thấy tiếng gọi ngoài cửa, dẫu đã biết là Đề Hầu nhưng Thị Hến vẫn tỏ ra ngạc nhiên '(Ủa) Tiếng ai kêu chi lạ? Hay thầy Lại tới đây'. Thậm chí, Thị còn khéo léo rủ Sư Nghêu ra chào hỏi để kẻo mắc tội với thầy Đề. Việc này càng làm Sư Nghêu thêm lo lắng mà hỏi chỗ trốn. Đây cũng chính là điều mà Thị Hến dự tính. Vì thế, dựa theo âm mưu ban đầu, Thị đã mách nước cho hắn chui xuống gầm phản 'Dưới phản ngựa thầy mau xuống đó'. Thực chất, Thị Hến muốn dùng cách bao che này để tiến hành những hành động tiếp theo.

Đón Đề Hầu vào nhà, Thị dùng lời nói hết sức ngon ngọt 'Đành đôi ta là cái duyên hằng/ (Thế mà) Không nghe đó, sao cho nên việc, (thưa thầy)'. Thị đon đả chào hỏi thầy Đề như một vị khách quý. Trong khi Đề Hầu vội vã đề cập tới chuyện ái ân, giao duyên thì Thị lại tỏ ra hết sức bình tĩnh 'Ái ân việc còn thong thả,/ Rượu trà xin hãy vui chơi'. Tiếp đến, Thị còn ẩn ý hỏi thăm về tội phá giới của thầy tu 'Tu (mà) phá giới tội chi trọng khinh (thưa thầy?)'. Thấy người đẹp thắc mắc , Đề Hầu không ngại trình bày 'Trong luật lệ rất to,/ Hễ phá giới tức hành trảm quyết!'. Tưởng như đây chỉ là cuộc hội thoại đơn thuần kẻ hỏi người đáp nhưng chính nó đã mở ra hiềm khích, mâu thuẫn giữa hai nhân vật Sư Nghêu và thầy Đề. Như vậy, một phần kế hoạch, mưu mô của Thị đã diễn ra chính xác, thuận lợi.

Sự thông minh, khôn khéo ở Thị Hến tiếp tục được khắc họa trong phân cảnh Huyện Trìa đến nhà. Cũng giống như Đề Hầu, Thị dùng lời lẽ nhẹ nhàng để mời chào tên quan tham lam, dối trá 'Rượu trà hãy xin mời,/ Ái ân rồi có đó.'. Thị vờ như chưa biết mà hỏi về tội của thầy tu phá giới. Để rồi, câu trả lời đến từ Huyện Trìa đã thành công khiến thầy Nghêu sợ hãi chui ra khỏi gầm giường. Với bản chất hèn nhát, ham sống sợ chết ăn sâu trong máu, gã thầy tu sa đọa sẵn sàng tố cáo tội trạng của Đề Hầu '...chớ thầy Đề ngồi trong thúng mơ nói mới ức chớ!', '(Chứ thầy Đề)/ Chỉ thị dâm ô chi loại!'. Giờ đây, âm mưu mà Thị Hến bày ra đã thành công. Thầy Đề phải lồm cồm bò ra, ba tên hám sắc cùng xuất đầu lộ diện.

Sau khi khiến thầy tu phá giới và hai tên chức dịch đồi bại nhân cách - Huyện Trìa, Đề Hầu mắc mưu và bẽ mặt ê chề, Thị Hến vô cùng vui mừng. Thị cảm thấy hạnh phúc, sung sướng vì mưu kế đã thành 'Kế hoan nhiên! Kế hoan nhiên!'. Từ đây, không còn ai đến nhà Thị quấy rối, làm bậy nữa 'Thế thầy tu hết tới ngõ nói điên/ Rày quan huyện hết đến nhà làm bậy'. Sau tất cả, Thị vẫn giữ vững tiết hạnh, phẩm chất đáng quý của người phụ nữ.

Bằng việc xây dựng nhân vật thông qua lời nói và hành động, tác giả dân gian đã khắc họa rõ nét nhân vật Thị Hến - một người thông minh, sắc sảo. Từ đó, bày tỏ thái độ đề cao, trân trọng những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Ngoài ra, tác giả dân gian cũng phê phán, mỉa mai hiện thực xã hội đương thời với sự suy đồi, biến chất về nhân cách, đạo đức.

Có thể nói, Thị Hến trong đoạn trích 'Huyện Trìa, Đề Hầu, Sư Nghêu mắc lỡm Thị Hến' quả là người khôn khéo, sáng suốt. Đứng trước cái dung tục, tầm thường, Thị đã dũng cảm vạch trần, khiến bọn hám sắc thêm nhục nhã, bẽ mặt.

1 126 lượt xem