Tác giả tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh) (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh) Ngữ văn lớp 10 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 88 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh) - Ngữ văn 10

I. Tác giả Sương Nguyệt Minh

Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

- Nhà văn Sương Nguyệt Minh tên thật là Nguyễn Ngọc Sơn, quê ở Yên Mỹ, Yên Mô, Ninh Bình. Ông là nhà văn quân đội, đến với nghiệp văn chương khá muộn màng, năm 1992, lần đầu tiên có truyện ngắn đăng trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Trước khi đến với nghiệp văn, ông từng làm nhiều nghề sinh nhai: từ buôn thuốc lá, trứng vịt, pháo; làm nghề khoan giếng, cho đến cắt dán phong bì.

Hiện tại, nhà văn Sương Nguyệt Minh đang công tác tại Ban Sáng tác - Tạp chí Văn nghệ Quân đội.

* Giải thưởng:

- Giải thưởng cuộc thi bút ký báo Giáo dục thời đại năm 2004 với tác phẩm 'Nhọc nhằn gieo chữ vùng cao'.

- Giải thưởng cuộc thi truyện ngắn cuộc thi Nhà xuất bản Giáo dục với tác phẩm 'Những bước đi vào đời', năm 2004.

* Các tác phẩm tiêu biểu:

- Đêm Thánh Vô Cùng

- Lửa cháy trong rừng hoang

- Người về bến sông Châu,

- Nỗi đau dòng họ

II. Đọc tác phẩm Người ở bến sông Châu

Hôm ấy, nước sông Châu đỏ quạch. Sóng lớp lớp đập tung vào mố cầu đổ đứng trơ trọi giữa dòng nước từ thời bom Mỹ thả. Hoàng hôn màu đỏ ối. Mây đen, trắng lẫn lộn bay cuồn cuộn.

Ngày dì Mây khoác ba lô về làng, chú San đi lấy vợ.

Hôm ấy, nước sông Châu đỏ quạch. Sóng lớp lớp đập tung vào mố cầu đổ đứng trơ trọi giữa dòng nước từ thời bom Mỹ thả. Hoàng hôn màu đỏ ối. Mây đen, trắng lẫn lộn bay cuồn cuộn. Nước sông Châu mỗi lúc một lên cao, chảy xiết. Đám rước dâu ngồi trên đò bảo nhau: Lũ mạn ngược đổ về…

Chú San lấy cô Thanh giáo viên ở xóm Bãi bên kia sông. Đám rước đông, Mai phải phụ với ông chèo đò chở mấy chuyến mới hết. Chú San đi học nghề ở nước ngoài về mấy tháng nay, chưa xin được việc. Chú mặc áo sơ vin, thắt ca ra vát đứng ngay ở mũi đò. Các cô mặc áo cổ lá sen; các bà, các ông mặc áo nâu sồng ngồi ở khoang đò, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Mặt chú San tươi, rạng rỡ, lúc nào cũng cười cười, răng trắng lấp loá. Cứ nhớ đến dì Mây là Mai muốn đánh đắm đò. Nghĩ ác! Nhưng quả thật lòng Mai cứ bồn chồn, bứt rứt nóng như lửa đốt. Mai vênh vênh cái mặt bảo chú San: “Đám cưới chú đông lẽ ra phải đi thuyền rồng”. Chú chau mày: “Chú xin cháu. Đừng nói. Ông buồn”. Mai lặng người nhìn ông đứng trên sạp thuyền chậm rãi, dứt khoát quẫy từng nhịp chèo. Ông lầm lì, mặt ngẩng cao, chòm râu bạc trắng phau bay bay. Ông đang làm cái việc chưa từng có trên đời là chở người yêu cũ của con gái mình đi lấy vợ. Mặt ông không để lộ niềm vui hay nỗi buồn. Nhưng nhìn vào mắt ông lại cảm thấy cồn cào như có sóng. Chỉ đến khi người cuối cùng của đám rước lên bến, ông mới vội lén lấy tay áo quệt nước mắt. Ông bỏ lên lều cỏ nằm. Mai neo đò vào bến.

Đám rước dâu qua sông một lúc thì dì Mây về. Dì đeo chiếc ba lô bạc mầu toòng teng ở một bên vai. Dì đứng ở bờ đê xóm Bãi gọi ông. Giọng dì nghèn nghẹn lẫn trong ráng chiều lúc hiện lên rất rõ, lúc nhoè đi. Ông đứng ở cửa lều cỏ dỏng tai nghe. Trong tiếng gió và sóng, Mai cảm nhận tiếng vọng của một thời xa lắc. Và loáng thoáng cả tiếng bọn trẻ chăn trâu: “Cô … ô… ơi. Lỡ đò rồi”.

Mai cứ ngỡ mình trong mơ. Khi bừng tỉnh, Mai đã thấy ông chèo đò ra giữa dòng sông. Dì Mây bước tập tễnh, tập tễnh xuống bến. Ông quẫy chèo gấp gáp. Mắt ông nhoè đi. Đò kịch bến. Dì Mây nhào xuống đò. Đò ngang tròng trành, tròng trành. Ông ôm lấy dì. Đôi vai rung lên. Ông nói từng hơi đứt quãng: “Mây ơi! Sao đến hôm nay mới về… chậm mất rồi! Con ơi!…Cha cứ tưởng…”

Mai đứng lặng, nước mắt lăn dài. Chèo buông, đò ngang trôi theo dòng xuôi về phía hạ nguồn. Ông và dì, một già một trẻ, một lành lặn, một thương tật tựa đỡ vào nhau. Bóng dì và ông in trên mặt sông lẫn trong bóng chiều cháy đỏ. Giật mình, Mai chạy dọc triền sông, thảng thốt gọi ông, gọi dì.

Chập tối.

Gió ở bến sông Châu thổi quằn quặn. Chuối sau túp lều cỏ tàu lá rung lật bật. Nước sông Châu chảy xa xá, vài con két đi ăn về muộn thỉnh thoảng kêu lạc loài giữa không trung. Mai rốn lại neo chặt đò. Ông đi trước, dì Mây thập thễnh theo sau về xóm Trại. Đóng xong cửa túp lều ở bến sông, Mai vội tắt qua đám mạ về nhà. Ba đứa em gái lạ dì, trố mắt đứng nhìn. Ông gỡ tấm ảnh dì Mây viền đen trong khung kính và bằng Tổ quốc ghi công cất vào tủ. Dì Mây đứng trước bàn thờ chịu tang bà. Dì gục đầu cạnh bát hương, nức nở: “Ối u ơi! Là u ơi! Ngày con đi u bảo cầu mong cho bom đạn tránh người. Lúc đi chín, lúc về mười, lấy chồng cho u bế cháu…”.

Ông thắp ba nén nhang đặt vào tay dì Mây. Ông cũng đứng bên dì, lẩm bẩm như nói với người cõi âm. Mai thẫn thờ bỏ ra ngoài đứng bên hàng dâm bụt leo đầy dây tơ hồng. Không muốn nhìn nhưng chữ song hỷ cắt bằng giấy bạc trên phông cưới chú San cứ đập vào mắt. Bố đi họp về há hốc miệng ngỡ ngàng cứ như bất chợt gặp dì Mây ở chợ âm phủ. Mẹ đi thăm bà đẻ cũng đã về. Đến sân, mẹ ngơ ngác đứng ngây như trời trồng rồi lắp bắp: “Chị lậy em… Em sống khôn chết thiêng…Ông và chị thờ, cúng em đúng ngày đúng tháng… Nhà đang làm ăn yên ổn đừng hiện về ám các cháu…”. Dì Mây đứng dậy. Đèn trên ban thờ chập chờn, khói hương quyện quanh người dì. “Chị ơi!”. Chỉ có vậy dì lặng đi. “Em đây… Mây đây… chị ơi!”. Lúc này thì mẹ bừng tỉnh. Dì Mây nhào đến, hai chị em ôm ghì lấy nhau. Mẹ sờ sờ nắn nắn khắp người dì, chạm phải chân cụt, mẹ nấc lên, rồi sụt sùi. Dì Mây cũng lau nước mắt. Mẹ bảo: “Chị khóc dì khô nước mắt. Ở hiền gặp lành, phúc ông bà ông vải to lắm mới có ngày hôm nay. Mà khiếp! Dì ngồi như tượng, khói hương phủ lên đầu lên vai, chị cứ tưởng…”. Bố bảo: “Thôi ! Thôi! Vừa mới về để cho dì ấy nghỉ”. Dì Mây ngồi xuống hiên, chốc chốc lại nhìn sang bên kia hàng dâm bụt. Bên chú San, cỗ cưới vẫn chưa tàn. Người ra, vào tấp nập, cười nói, chúc tụng vang một góc làng. Cô Thanh mặc quần láng Nam Định, áo pôpơlin trắng loá đi từng bàn tiếp thức ăn. Ông Quảng được dâu hiền, nét mặt sung mãn. Ông tất bật: “Thằng Lẫm đâu?”. “Dạ, dạ”. “Mâm cụ trưởng hết rượu”. Lại tiếng dạ ngoăn ngoắt, rồi tiếng chân chạy cỗ rộn rịch. Cụ trưởng lè nhè, chỉ vào cô Thanh: “Cháu…cháu… chuột sa chĩnh gạo nhá. Cái Mây không báo tử… thì cháu đếch được làm dâu cái nhà này… Cố mà đẻ một thằng cu…” Thím Ba toang toác át cả tiếng nhạc thoát ra từ cái đài catset cũ: “Cụ ơi! cụ chếnh choáng rồi. Rượu vào lời ra. Cụ nói lúc này không tiện đâu. Danh giá cô Thanh chẳng kém gì cậu San nhà ta. To mông, rộng háng, lưng hơi gù thế kia, cứ sòn sòn năm một…”. Đám cỗ cười ồ lên. Cụ Trưởng đặt mạnh chén mắt trâu xuống mâm, rượu sóng sánh tràn ra: “Con mẹ kia… cười gì… Mày dạy ông phỏng. Láo! Về mà dạy thằng con hoang nhà mày nhá!…”. Ông Quảng chạy lại chắp tay vái lia lịa: “Tôi xin ông… Ngày vui của các cháu…”. “Nhưng mà nó láo…”. “Vâng. Cháu nó biết lỗi rồi, có nói năng nữa đâu. Thằng Lẫm đâu mở nhạc to lên”. Tiếng máy cọt kẹt, nhạc ầm lên. Thím Ba đã lui ra góc sân từ lúc nào ngồi thút thít. Khổ thân thím. Chú hy sinh ba năm, thím đẻ em bé. Hỏi bố thằng Cún là ai. Thím giấu không nói. Cuối cùng kỷ luật, một mình gánh chịu. Nghe đâu định cắt cả tiêu chuẩn vợ liệt sĩ.

Bên nhà ông, hàng xóm vẫn chưa biết dì Mây về. Cả nhà nói chuyện chủng chẳng. Ông hỏi bâng quơ những chuyện xưa xa lắc. Bố an ủi dì Mây cao số. Chuyện trò chẳng biết vui hay buồn. Mẹ đụng phải cái gì cũng rơi, cũng vỡ. Tim Mai đập thon thót. Thỉnh thoảng bố hỏi, dì Mây miễn cưỡng trả lời, bụng dạ cứ để ở bên nhà chú San. Dì linh cảm điều bất hạnh đã xảy ra. Trớ trêu quá! Sự thật phũ phàng đã dập tắt niềm vui và khát vọng của dì. Dì Mây bẽ bàng, cô đơn. Dì hận. Dì tủi. Lặn lội khắp nẻo đường Trường Sơn, dì mong mỏi ngày gặp lại. Thế mà người ta có biết dì về đâu. Người ta đang sung sướng, hạnh phúc kìa. Lại còn cười nữa trời ơi. Dì Mây nhắm mắt lại trốn tránh ánh đèn măng sông đám cưới. Đó là thứ ánh sáng hạnh phúc của người tình xưa chiếu vào tận sâu thẳm lòng dì. Nó như muôn vàn mũi kim nhọn châm, chích vào trái tim dì đang rỉ máu… Dì mở mắt. Xót xa nhìn cái chân cụt đến đầu gối và tấm thân còm nhom, xanh lướt…

“Khốn nạn cái thân em tôi”. Mẹ chỉ sang nhà chú San:“Kia kìa! Người ta đang nắm tay nhau chướng mắt lắm. Dì chịu ngồi thế này à?”. Bố bảo: “Chả lẽ đứng giữa sân mà hô hổng. Trước lúc đi lấy vợ người ta cũng sang thưa chuyện tử tế”. Chỉ chờ có thế mẹ lu loa: “Giời ơi. Là giời!. Người ta sung sướng để em tôi khốn khổ, khốn nạn thế này…”. Ông nghiến răng hầm hừ: “Bớt bớt cái mồm cho tôi nhờ. Vác được cái xác về là mừng. Còn mong gì hơn nữa. Phải biết thân phận mình chớ!”.

Bên nhà chú San có tiếng quát tắt nhạc. Thím Ba hổn hển đến ghé sát tai chú San thì thầm. Hình như chưa hết câu chú đã ngồi phịch xuống ghế ôm đầu. Tiếng ồn ào lắng lại chỉ còn tiếng thu dọn bát đĩa kêu lách cách.

Một lát sau, chú San rẽ hàng dâm bụt, bổ sang. Người chú quấn đầy dây tơ hồng. Bố ngồi bó gối quay mặt đi nơi khác. Mẹ ngại ngùng chào đãi bôi. Ông tra thuốc vào nõ điếu rít liên tục. Chú San nhận lỗi, xin phép được nói chuyện với dì. Dì Mây nuốt nước mắt vào trong: “Giờ không còn gì để nói nữa. Anh về đi!”. Dì chống nạng gỗ lộc cộc bỏ ra ngoài ngõ. Chú San đứng phắt dậy đi theo: “Cho anh nói một câu”. “Không!” “Anh chỉ xin nói một câu thôi”. Dì Mây thở hổn hển, tay vin cành dựa hẳn vào cây bưởi. “Anh có lỗi. Anh tệ quá. Mây cứ chửi mắng anh đi”. Chú San nắm hai tay đập liên hồi vào thân cây. Lá bưởi xào xạc. Vài con chim giật mình bay vút lên không trung. Dì Mây tức tưởi: “Hôm nay là ngày gì? Anh nhớ không. Có ngờ đâu ngày ấy tiễn anh đi cũng là ngày li biệt”.

Họ lặng im, không ai nói gì nữa. Trong mắt hai người không phải màn đêm dưới tán lá bưởi thoang thoảng mùi hương thuần khiết mà là bến sông. Bến sông Châu năm ấy giữa mùa hoa gạo cháy. Từng cánh, từng cánh hoa đỏ tươi rắc đầy lối xuống đò. Phía ga Gềnh xa xa ì ùng tiếng bom Mỹ thả. Đạn cao xạ lụp bụp nổ. Từng đám khói tròn đen trắng lẩn vẩn trên nền trời xanh ngắt. Nhịp cầu bị bom đánh sập trơ ở bến sông. Người con gái chèo đò đưa người con trai đi nước ngoài học. Đò ngang bồng bềnh, bồng bềnh. Bỗng máy bay rẹt qua đầu. Người con gái bỏ chèo ôm chặt, nép đầu vào ngực người yêu. Con đò cứ trôi đi chở hai người lặng im ôm nhau như không hề có chiến tranh, không có cuộc chia ly.

Mai ra múc nước, gầu va vào thành giếng. Hai người bừng tỉnh. Giọng chú San bồi hồi: “Ở nước ngoài, đêm nào anh cũng nhớ đến em, nhớ bến sông Châu”. Tiếng dì Mây da diết: “Ngày ở Trường Sơn, trang nhật ký nào cũng có tên anh”. Hồi ức trở về những ngày xa nhau. Một thời đã qua ở hai khung trời xa cách lại hiện lên. Người con gái ở Trường Sơn đạn nổ bom rơi, người con trai ở xứ bạn đầy hoa tuyết trắng rơi rơi, êm ả, thanh bình… Tình yêu, nỗi nhớ như kéo không gian, thời gian gần lại. Trong lòng họ tình yêu, tình thương lại bùng lên bất chợt, cồn cào, da diết. Chú San đột nhiên vung tay đấm rung cành bưởi: “Mây! Chúng ta sẽ làm lại”. “San! Anh nói gì thế???”. “Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta về sống với nhau”. Dì Mây lặng đi, người rũ ra, mềm oặt. Dì từ từ khuỵu xuống. Chú San sẽ sàng đỡ dì ngồi xuống đống củi xếp cạnh gốc cây bưởi.

Bên kia hàng dâm bụt cô Thanh đi đi lại lại. Chốc chốc cô lại dứt lá dâm bụt xoàn xoạt. Dây tơ hồng quấn quýt ở tay cô. Trong buồng hạnh phúc, giường cưới bỏ ngỏ, màn trắng thấp thoáng qua cửa sổ. “Chết thật!”. Mai buột miệng thốt lên. Tình thế này chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Trên đầu không thấy gió thổi, mây bay. Và cây trong vườn đứng im phăng phắc. Không khí ngột ngạt nghẹt thở. Đó đây im ắng hãi hùng như đang dồn nén cho một trận cuồng phong bão tố sắp cuộn lên ở bến sông Châu.

“Không!”. Tiếng dì Mây phá vỡ khoảng không gian im lặng. Dì bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân. Chú San chạy theo níu áo dì Mây. Dì đứng lại, thở hổn hển: “Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi”. Chú San ngập ngừng định nói điều gì. Dì Mây ngăn lại: “Anh đừng lo cho tôi”. Dì thở dài đánh thượt: “Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn”. Cô Thanh đứng bên kia hàng dâm bụt mếu máo nói với sang: “Chị ơi! Chúng em ơn chị”. Không đáp lại, dì Mây quay ngoắt lưng, chẳng biết mặt cô Thanh lúc ấy tròn hay méo. Dì ném xoạch đôi nạng gỗ xuống sân, ôm mặt khóc hu hu. Dì khóc như chưa bao giờ được khóc. Bao oan khúc tức tưởi dồn nén chặt vỡ oà ra. Mẹ thút thít dìu dì Mây vào trong nhà. Dì nằm úp mặt vào tường thổn thức.

Đêm dài quá.

Chuột trên mái nhà đuổi nhau kêu chí choé. Có tiếng ken két như thân tre vặn mình sát vào nhau. Lại có tiếng cọt kẹt như tiếng dát giường kêu vọng trong đêm sâu vắng. Thở dài. Chốc chốc lại thở dài, dì Mây dựa lưng vào vách, một chân còn lại bó gối. Dì ngồi rất lâu trước ngọn đèn dầu tù mù. Con búp bê tóc vàng trong túi cóc ba lô chưa kịp cho lũ trẻ lòi ra. Dì Mây ngắm nghía. Dì ôm chặt nó vào lòng, đu đưa, nâng niu. Chán! Dì lại lôi quyển nhật ký lật từng trang, trang nào cũng có tên chú San. Dì úp quyển nhật ký vào mặt. Nước mắt nhoè lên các dòng chữ trên giấy đã ố vàng. Cuối cùng, dì khập khễnh xuống bếp. Bật diêm, dì ngồi chậm rãi xé từng trang, từng trang ném vào lửa. Mặt dì lạnh tanh vô hồn. Dì ngồi như tượng. Lửa cháy xanh, leo lét, chập chờn in hình dì lên vách bếp. Lúc sau, dì giật mình, hoảng hốt dập lửa. Quyển nhật ký xé tung, đã đốt cháy một nửa.

Sáng.

Tin dì mây về loang đi khắp xóm Trại. Dì Mây ngượng ngùng tiếp khách. Người đưa đẩy, an ủi, kẻ cảm thông, xót xa. Nửa buổi, vãn khách, dì Mây lại khoác ba lô ra lều cỏ. Dì ngồi trên bờ đê cao ngẩn ngơ nhìn hoa gạo đỏ rắc đầy bến sông Châu. Mai se sẽ ngồi bên: “Dì ơi! Dì về được nhà là mừng lắm. Người còn là quí nhất, dì ơi”. Dì Mây mơ màng như không nghe Mai nói. Dì khe khẽ, thì thầm: “Ngày xưa, dì và chú San thường ngồi ở bến sông này…” Lặng đi một lát, lại nói tiếp trong hơi thở: “Dì chèo đò đưa chú đi học cũng vào mùa hoa gạo…”. Dì thở dài, nuối tiếc. Đôi mắt nhìn xa xăm.

Bố ra bến sông Châu. Làm mặt giận, bố bảo: “Dì làm thế, dân làng chửi mặt tôi”. Rồi bố nói luôn: “Thôi cũng tiện, ngày thường ông có chịu về nhà đâu. Dì ở đây gần ông. Tôi bảo chị phụ thêm cất căn nhà mới”. Ông lặng thinh, ném sầm cái chèo lên đò. Ông gỡ neo không thèm ngoái lại, chèo phăng sang bờ bên kia đón khách. Dì Mây bảo: “Anh về đi, đừng nói năng gì nữa”. Bố đi mấy bước còn quay lại dặn: “Mày ở với dì đừng có ngụp lặn, mò móc, dưới sông còn sót bom bi”. Bố lo xa quá. Người ta suốt ngày quăng chài bắt cá, bắt tôm. Hôm qua, thím Ba đun te bắt rạm, xúc phải cả mảnh bom. Có thấy ai chết đâu.

Chiều chiều.

Mẹ hái lá bưởi mang ra bến sông Châu. Mẹ và dì gội đầu cho nhau. Tóc dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa. Ngày chưa đi bộ đội, dì thường sai Mai lấy ghế đẩu cho dì đứng lên chải tóc. Tóc dì đen óng mượt. Những lúc gội đầu xong, dì nắm sát chân tóc quay mù mịt. Bao nhiêu hạt nước li ti bắn ra rơi cả vào mặt Mai. Chú San nấp bên hàng dâm bụt vạch lá nhìn trộm cũng giật mình. Mùa hoa loa kèn, dì Mây rủ Mai ra triền sông chơi. Hai dì cháu đuổi nhau. Chạy ngược chiều gió thổi, tóc dì sổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây. Mai thầm ước khi thành thiếu nữ có mái tóc mây dài đẹp như dì. Mẹ và dì Mây nặng tình quá. Hai chị em rủ rỉ rù rì chuyện trò. Mai chẳng rõ, chỉ thấy chốc chốc mẹ thở dài. Lúc về, mẹ dặn: “Mai. Chịu khó học hành rồi đỡ đần ông cho dì vui. Đừng có nhẩy cẫng đi chơi bỏ dì ngồi một mình”. Mẹ lại bảo: “Dì ra đây là phải. ở nhà nhìn sang bên kia hàng dâm bụt thấy người ta như đôi chim cu, đến tôi cũng nẫu ruột”. Mai lờ mờ hiểu được câu: “Chị em gái như trái cau non”.

Từ ngày ra bến sông Châu, dì Mây buồn lắm, cứ tha thẩn đi ra đi vào, lúc tư lự ngồi ngắm trời nhìn nước, lúc lụi cụi nấu cơm. Vắng Mai, chỉ còn ông và dì, hai bố con chòi chọi, ăn được bữa cơm đến khốn khổ. Ông thương dì, cố nhai, cố nuốt, mắt ngân ngấn nước. Dì cũng não lòng, có hôm bỏ bữa. Ban ngày đi lại còn khuây khoả. Ban đêm nghe tiếng trẻ sơ sinh khóc bên trạm xá xã vọng sang, dì Mây lại giật mình thon thót.

Dì Mây thỉnh thoảng cũng phụ với ông chèo đò. Dì bỏ chân giả, chống nạng gỗ khó nhọc leo lên sạp thuyền ngồi, hai tay cầm chèo quẫy nước. Lũ bạn Mai đi học cấp ba trường huyện chẳng bao giờ dì lấy tiền đò. Đi nhờ mãi cũng ngại, bọn nó bảo: “Chúng cháu sức dài vai rộng, dì giúp mãi, ngại quá!”. Dì Mây cười: “Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến nữa có lương rồi trả”. Bọn nó nhao nhao: “Ứ trả đâu. Chúng cháu dồn lại, dì lấy chồng đi mừng luôn thể”. Dì Mây chợt thoáng buồn. Chúng nó kín đáo nhìn nhau nói lảng sang chuyện khác. Thương dì, mỗi lần qua chúng nó bỏ vào lều có khi thì hoa quả, lúc lại bánh trái. Có đứa còn ngắt cành hoa loa kèn to cắm ở đầu chõng tre dì nằm nữa. Lũ bạn Mai như một đàn chim sẻ chợt ùa đến, thoắt bay đi, làm cho bến sông Châu lúc ồn ào náo động, lúc lại im ắng, buồn tẻ.

Về một thời gian, tóc dì Mây mọc thêm, da dẻ hồng hào trở lại. Đêm trăng sáng. Dì Mây lọn tóc cao trên gáy rủ Mai xuống bến sông tắm. Nước sông Châu chảy êm đềm mát rượi. Vai dì Mây để trần. Trăng sáng lấp loá trên ngực dì căng đầy. Cổ dì Mây trắng ngần, mắt dì sáng lên, lung linh, huyền hoặc. Thảo nào mẹ thường nói: “Ngày xưa dì đẹp nhất làng”. Mẹ cũng bảo: “Có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”. Mai chột dạ ngước lên, chỉ thấy triền đê cao ngút. Bờ bên kia lấp loá ánh lửa hàn. Họ đang sắp bắc cầu. Mai bơi lại gần: “Dì ơi! Dì còn trẻ lắm”. “Nỡm ạ. Dì sắp thành bà cô rồi đấy. Còn mày nữa. Tao cứ ngày một già đi, mày lại cứ phổng phao ra”. Mai cúi nhìn xuống ngực, tự nhiên bừng đỏ mặt. Dì Mây quẫy mình, một chân còn lại quẫy nước, hai tay sải mạnh, người lấp loá trên sông đầy ánh bạc. Sóng nước lao xao.

Làng xây trạm xá mới. Bà y sĩ trưởng trạm không sống nổi với nghề bỏ việc. Thiếu người, bàn ghế, giường tủ để trơ trỏng. Biết dì là quân y sĩ Trường Sơn, ông Chủ tịch xã nói khó với dì ra giúp. Dì Mây trở lại nghề. Khổ nhất là những đêm trời mưa người ta gọi dì Mây đến khám tại nhà. Đường quê khấp khểnh sống trâu, dì bước đầy bước hụt. Con đường từ bến sông đến trạm xá có vài trăm mét, dì cậm cạch bước, lưng thấm đẫm mồ hôi. Ông Chủ tịch xã bảo: “Tập xe đạp đi, tôi cho người sửa đường rải đá mạt”. Dì Mây bảo: “Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục”. Mấy tháng rồi, lúc trời mưa con đường đầy dấu chân tròn in vào đất phù sa.

Đêm mưa.

Vợ chú San vượt cạn thiếu tháng. Thai ngôi ngược lại tràng hoa quấn cổ. Thím Ba loay hoay đỡ mãi, cô Thanh không đẻ được. Cô cứ luôn mồm kêu: “Chị Ba ơi… Em chết mất… Em đau quá! …”. Cô đuối dần không còn sức rặn, một hai phần sống tám chín phần chết. Đường lên huyện xa lắc. Đò ngang cách trở. Mưa gió dầm dề. Người ướt lướt thướt, chú San mặt cắt không còn một hạt máu. Dì Mây khoác áo mưa đến. Chú San đang dở khóc dở mếu. Thím Ba lại vướng thằng Cún. Nó khóc ngằn ngặt không dời thím nửa bước. Thím bực mình đét vào đít nó một cái: “Con với cái. Rõ khổ”. Thím Ba kéo dì Mây ra ngoài hiên, rỉ tai: “Đưa lên huyện không kịp mà động dao kéo vào cũng không cứu nổi. Nhà nó, chồng lêu bêu chưa xin được việc. Ba cái đồng bạc đi nước ngoài về ăn hết rồi tiền đâu thuốc men. Vạ lây. Mày khốn”. Như thể không nghe thím Ba nói, dì Mây tiêm thuốc tê, thuốc trợ sức, rạch rộng rồi bảo cô Thanh cố rặn. Cô Thanh nhìn dì Mây bằng con mắt sợ hãi, cầu cứu. Dì nhỏ nhẹ: “Em cố lên. Hãy nghĩ đến đứa con. Nào… Cố lên em… Cố lên…”. Cô Thanh mím môi, oằn mình dồn sức. Khiếp quá! Mai chạy ra ngoài đứng. Lúc sau, nghe loáng thoáng tiếng dì Mây bảo thím Ba băng lại rốn cho đứa bé. Dì Mây khâu xong vừa lúc trời rạng, mưa ngớt từ lúc nào. Mồ hôi dì vã ra như tắm. Dì Mây thở phào. Thím Ba bảo: “Mặt nó tím ngắt mà không khóc”. Dì Mây ghé miệng vào mũi nó mút mút rồi phát nhẹ vào đít nó một cái. Tiếng oe oe bật ra. Chú San ở ngoài nhẩy cẫng lên: “Sống rồi! Con ơi…”. Ở trong, dì Mây gục luôn xuống bàn đỡ đẻ khóc tức tưởi. “Ơ cái con này!”. Thím Ba ngạc nhiên. Dì Mây càng khóc to hơn. Tiếng khóc của dì hoà lẫn tiếng oe oe của đứa bé. Nghe xót xa, tủi hờn, xen lẫn niềm ao ước, chờ mong và vui buồn lẫn lộn.

Chú San vào, bối rối. Thím Ba bảo: “Tôi hiểu ra rồi. Cứ để con Mây nó khóc. Xúm vào đưa vợ về phòng sau đẻ”. Chú San lóng ngóng vịn vào xe đẩy. Khi chú San quay lại. Dì Mây không còn ở đó nữa. Dưới nền trời bàng bạc là muôn triệu hạt mưa bụi li ti, giăng giăng bay trắng dòng sông Châu. Bóng dì Mây thấp thoáng trong bụi mưa, bước thấp, bước cao, ở phía cuối con đường về bến.

Mấy ngày sau, chú San đặt tên con bé cũng là Mây. Thím Ba lắc đầu lè lưỡi: “Khiếp quá! Gần hai mươi năm tao làm bà đỡ, chưa thấy ca nào khó thế”. Thím bảo dì Mây: “Mày tài thật! Đưa lên huyện là họ mổ toác cái bụng ra ấy chứ”. Dì Mây thơm thơm cái miệng nhỏ xinh xinh của con bé đang chóp chép. Cô Thanh sướt mướt: “Nhà em ơn chị đời đời”. Dì Mây cho con bé ít tiền. Cô Thanh chối đây đẩy. “Tôi cho nó chứ có cho cô đâu”. Dì Mây bảo thế. Chú San đứng im, chả biết chú nghĩ gì.

Bố biết, mắng: “Có khi làm phúc phải tội. Dì dại. Lỡ không may người ta nghi trả thù. Không đổ máu cũng vào tù như bỡn”. Dường như uất ức từ lâu, chỉ chờ có thế, thím Ba xả ra hết: “Hay hớn quá! Đạo đức giả tuốt. Giờ tôi chẳng giấu giếm nữa. Anh giả vờ bệnh tật ở nhà hưởng phú quý thái bình, đẩy em trai đi lính thế thân…”. “Tôi xin thím. Chú ấy là chồng thím nhưng là em tôi. Chú ấy chết. Tôi lo liệu.” “Lo cái chó gì. Họp chi bộ anh vẫn giơ tay biểu quyết kỷ luật tôi. Con trai anh đấy. Thằng Cún đấy. Anh mang về mà nuôi.”. Nói vậy, nhưng thím lại kéo thằng Cún vào lòng như sợ người ta bắt mất. Thím nức nở: “Con ơi! Mẹ khổ lắm”. Bố hoảng: “Thím này điên rồi. Dì Mây nói hộ tôi”. Rồi bố phóng xe môbilét vù đi. Dì Mây vỗ về: “Đời người đàn bà khổ lắm. Chị ơi nghiến răng mà chịu. Đẹp tốt phô ra, xấu xa che lại”. Thím Ba vẫn khóc ời ời: “Mà cũng tại tôi. Tôi tệ quá, tệ quá!”.

Ngày ấy, trai tráng trong làng đi bộ đội hết, đến như dì Mây cũng ra chiến trường. Làng toàn nạ dòng, người già với trẻ con. Chẳng biết thím Ba đáng thương hay đáng tội. Thím Ba ngớt khóc, nhìn thấy Mai, thím đuổi: “Mày đi ngay. Chuyện người lớn biết đâu bỏ đấy nhá.”. Mai chạy về nhà như ma đuổi, không khóc nhưng nước mắt cứ trào ra. Thương mẹ, thương ba đứa em gái, thương thằng Cún, thím Ba, dì Mây. Mai giận bố. Lại có chuyện động trời như thế. Mà bố dám làm mọi điều lắm. Mai nhớ sau mấy hôm dì Mây về, ông mang bằng Tổ quốc ghi công trả cho xã. Bố bảo: “Chẳng biết người ta có lấy lại tiền tuất không nhỉ.”. Đang phủi bụi, ông giận, bực mình ném phất trần xuống nền nhà rồi bỏ cả khung kính lẫn bằng vào túi, đi về trụ sở uỷ ban. Mẹ nước mắt lưng tròng.

Tháng ba lại về.

Hoa gạo nở rắc đầy lối xuống sông. Ông độ này yếu, thỉnh thoảng ho khúc khắc. Bờ bên kia ngổn ngang cọc xi măng, sắt thép. Bố bảo: “Nay mai có cây cầu mới hết cảnh đò giang cách trở”. Mai chợt buồn, nghĩ đến ngày ông gác chèo, lên bờ. Ông yếu nhiều, bước chậm rồi. Nghĩ dại, ông chết dì Mây ở với ai? Bố quát: “Ơ kìa mày nghĩ vẩn vơ cái gì thế. Cấm ra chỗ người ta làm. Lính công binh trúng thầu toàn những thằng lạ hoắc, mồm mép như tép nhẩy. Lớ xớ phải lòng nhau, ễch bụng ra bằng bôi tro trát trấu vào mặt tao”. Bố nghĩ đen tối quá. Gặp ai bố cũng nghi ngờ, cảnh giác. Hôm Chỉ huy đến liên hệ cho bộ đội tập kết xây cầu, bố còn mặc cả: “Chú Quang này. Bến sông đầy bom bi chưa nổ. Lúc rà bom tôi cho dân quân gác, đơn vị chú phải nuôi cơm”. Thấy ảnh dì Mây đội mũ tai bèo treo trên tường, chú Quang giật mình, nhìn trân trân như bắt gặp người thân. Bố bảo: “Em gái nhà tôi đấy. Người ta báo tử từ dạo chưa giải phóng”. Chú Quang lặng người. Hai mắt chớp chớp. Như người mất hồn, chú ngẩn ngơ về…

Lính công binh làm cầu rà bom suốt ngày ngụp lặn ở bến sông Châu. Người nào cũng đen ngòm, khoẻ như vâm, nhưng trông hiền khô. Lũ bạn Mai đi học qua suốt ngày trêu chọc… Ngồi trước trang sách, đầu óc Mai cứ để ở đâu đâu. Khổ thế! Người nôn nao bứt rứt không yên.

Mẹ hốt hoảng chạy về nhà la lối: “Ối em ơi là em ơi ời… Em sống khôn thác thiêng…”. Lo quá, Mai cứ nghĩ dì Mây… Bố quát: “Cái gì? Nói đi nào… cứ ông ổng khóc”. “Thím Ba… Mình ra mà coi… người ta bảo thím đun te vướng bom bi”. Hoảng quá, Mai chạy theo bố ra bến sông. Chân cứ díu lại, trống ngực đánh thình thịch, tức thở. Người ta bọc vòng trong vòng ngoài. Bố đến, mọi người giãn ra. Dì Mây ngồi cạnh thím Ba, im phắc. Tóc dì xoã ra, mắt ráo hoảnh vô hồn như nhìn về cõi xa xăm. Thím Ba đã tắt thở. Bom bi nổ găm đầy người lỗ chỗ. Máu ở ngực thím vẫn còn rỉ ra. Dưới sông te lưới nổi lập lờ, lập lờ.

Đám ma thím Ba về, bố sọp hẳn người. Ban đêm thơ thẩn trong vườn lại ra cầu ao ngồi. Sáng bố bảo dì Mây: “Tôi biết lúc sắp tắt thở, mẹ thằng Cún trăn trối để dì nuôi cháu. Tôi nghĩ chẳng biết có phải không. Dì cho nó về ở với tôi…”. Dì Mây gạt đi: “Cứ để tôi nuôi cháu, sau sẽ liệu”. Bố bảo: “Tôi ơn dì”.

Cuối thu trời hơi se lạnh.

Giữa nền trời mờ đục, sếu từng đàn giăng giăng hình chữ V bay mải miết về phương Nam tránh rét. Trong làng thêm nhiều người đan áo. Ông mặc ấm mỗi lần xuống bến. Lính công binh bắc thêm một nhịp cầu. Họ kháo nhau thủ trưởng tán dì Mây không đổ. Ở bờ bên này họ bảo: “Dì Mây chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Bom nổ người lính công binh sốt rét tóc rụng trọc đầu vẫn lành lặn, còn cô y sĩ Trường Sơn mảnh đạn phạt một chân.”. Bên kia bờ sông họ bảo: “Chú Quang sốt rét vẫn còn hành hạ, lấy vợ chắc gì đã có con.” Lính đúc móng giữa dòng lại nói: “Chú Quang đi suốt dọc sông Châu tìm cô y sĩ Trường Sơn đã cứu mình thoát nạn”. Dân xóm trại thì đồn: Dì Mây sắp lấy chồng. Còn bên bến sông Châu là ngôi nhà tình nghĩa dựng ngay trên nền căn lều cũ, dì Mây thở dài: “Ngày ấy, ở Trường Sơn có hẹn ước gì đâu. Bây giờ người ta đã là kỹ sư. Còn mình… liệu có nên không.” Rồi dì lại vỗ về ầu ơ ru thằng Cún ngủ.

Chuyện tình của thủ trưởng, chẳng biết có thật không, lính tráng truyền nhau dệt nên như huyền thoại. Nhưng có một sự thật chẳng hề nói quá: Đêm nào vắng tiếng ru vọng ra từ căn nhà mới xây bên bến sông Châu là những người lính công binh thao thức hoài, khó ngủ…

Đêm sông Châu.

Đất trời như giao hoà một màu bàng bạc. Muôn triệu vì sao chi chít, nhấp nháy, rắc đầy xuống bến sông. Làng quê lam lũ, mệt mỏi chìm vào giấc ngủ. Mùi hương cỏ mật lẫn vào mùi hương nồng nàn của đất phù sa dậy lên. Sông Châu thao thức. Sóng vỗ về, rì rầm bài ca ngàn xưa của đất trời. Văng vẳng trong đêm tiếng dì Mây ru thằng Cún ngủ. Giọng ầu ơ từ bến sông Châu lan xa, vang vọng. Lính công binh bắc cầu chợt dừng tay hàn, lắng nghe. Tiếng ru lúc đầu trầm lắng, nghèn nghẹn, xót xa sau êm ái, trong sáng, mênh mang, ngân nga sâu lắng tận sâu thẳm con tim những người lính. Tiếng ru lẫn vào hơi thở sông nước trong đêm, hoà vào hương thơm của cây cỏ, đất trời.

III. Tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

1. Thể loại

Truyện ngắn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Sáng tác vào tháng 6/1997 xuất bản tại NXB Phụ nữ, Hà Nội, 2016

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự

4. Tóm tắt tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

Câu chuyện kể về dì Mây tốt bụng, mạnh mẽ và đầy bản lĩnh. Mặc dù trong cuộc đời gặp biết bao biến cố, khó khăn, thiệt thòi, nhưng dì vẫn mạnh mẽ vượt qua mọi khó khăn.

Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)

5. Bố cục tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

- Phần 1: Từ đầu đến “di lên vách bếp”: Chú San đi lấy vợ , dì Mây trở về xóm Trại

- Phần 2: Tiếp đến “Sóng nước lao xao”: Cuộc sống giản dị của dì Mây ở xóm Trại

- Phần 3: Tiếp đến “ở phía cuối con đường về bến”: Dì Mây giúp cô Thanh (vợ chú San) vượt cạn

- Đoạn 4: Còn lại: Phẩm chất cao đẹp của dì Mây

6. Giá trị nội dung tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

- Ca ngợi phẩm chất vị tha và tính cách mãnh mẽ của nhân vật dì Mây.

- Cảm thông trước hoàn cảnh và số phận của những người phụ nữ bước ra từ chiến tranh, họ đã hi sinh hạnh phúc của cá nhân góp phần làm nên chiến thắng lớn cho dân tộc

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật

- Các tình huống được xây dựng hồi hộp, hấp dẫn lôi cuốn người đọc

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

1. Bối cảnh câu chuyện

- Không gian: Dòng sông, con đò, cây cầu

- Thời gian: Ngày dì Mây trở về, chập tối, đêm, sáng, chiều chiều, đêm mưa, tháng ba lại về, cuối thu, đêm sông Châu.

=> Ý nghĩa của những hình ảnh dòng sông, con đò, cây cầu xuất hiện trong truyện.

- Hình ảnh dòng sông, con đò, cây cầu như chứng nhân quan trọng chứng kiến mọi thăng trầm, biến cố đổi thay của những người dân nơi đây.

- Hơn hết đó còn là những sự vật âm thầm chứng kiến những thăng trầm cuộc đời nhân vật chính, dòng sông Châu là nơi chứng kiến tình yêu đẹp đẽ, trong trẻo, thơ mộng của chú San và dì Mây, bến đò là nơi dì Mây chèo đò đưa chú San đi học. Bến đò cũng là nơi đón dì Mây từ chiến trường bom đạn trở về, dòng sông là nơi chứng kiến, cảm thương trước hoàn cảnh nghiệt ngã, đau thương của dì Mây, khi chứng kiến chú San đi lấy vợ đúng ngày mình trở về.

2. Nhân vật dì Mây

* Hoàn cảnh

- Trước khi đi xung phong

+ Có mối tình đẹp đẽ, trong trẻo với chú San.

+ Nhưng phải chia tay nhau vì chú San đi học nghề ở nước ngoài. Còn dì thì xung phong làm cô y sĩ Trường Sơn.

=> Mỗi người mỗi ngả

- Khi từ chiến trường bom đạn chờ về

+ Dì bị đạn phạt vào chân, phải đi tập tễnh.

+ Chú San thì đã lấy vợ đúng vào ngày dì trở về

=> Tình cảnh đáng thương, trớ trêu, tủi thân của dì.

* Ngoại hình

- Trước khi đi xung phong

+ Tóc dì đen dài, óng mượt

+ 'Dì đẹp gái nhất làng, có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm”

- Khi từ chiến trường bom đạn chờ về

+ Mái tóc dì xơ và thưa hơn nhiều

=> Bom đạn chiến tranh đã lấy đi tuổi thanh xuân, tươi đẹp của những người con gái đôi mươi.

* Phẩm chất tính cách

- Dứt khoát, cương quyết

+ Thái độ của dì Mây rất cương quyết, thể hiện sự bản lĩnh kiên cường của người phụ nữ. Dì nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị “Mây, chúng ta sẽ làm lại” của chú San.

+Trước sự thể đã rồi dì nhận phần thiệt thòi về mình, dì chỉ muốn một người đàn bà khổ.

- Vượt lên hoàn cảnh

+ Mặc dù phải dùng chân giả nhưng dì vẫn giúp ông chèo đò

+ Vẫn sống tiếp sau cú sốc đau đớn về tinh thần.

- Yêu thương con người và tốt bụng

+ Không khi nào dì Mây lấy tiền đò của những lứa học sinh đi học cấp 3 trường huyện.

- Khi dì Mây giúp cô Thanh (vợ chú San) vượt cạn, khi cô Thanh đẻ thiếu tháng lại tràng hoa quấn cổ à phẩm chất tốt bụng, tính cách thương người, luôn nghĩ tới người khác của dì Mây. Mặc dù ở vào hoàn cảnh của dì việc làm đó chẳng hề dễ dàng, nhưng dì vẫn không chút e ngại, chần chừ, suy nghĩ gì mà lập tức tới giúp đỡ cô Thanh vượt qua cơn nguy hiểm, để mẹ tròn con vuông.

=> Có thể thấy dì Mây hiện lên với rất nhiều những phẩm chất cao thượng, tốt đẹp, dì đại diện cho những người con gái bước ra từ chiến tranh, mạnh mẽ kiên cường, nhưng đầy tình yêu thương, vị tha sâu sắc.

V. Các đề văn mẫu

Soạn bài Người ở bến sông Châu | Hay nhất Soạn văn 10 Cánh diều

Đề bài: Phân tích bài Người ở bến sông Châu

Bài tham khảo 1

Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội, đến với sự nghiệp văn chương khá muộn. Tiêu biểu cho sáng tác của ông phải kể đến truyện 'Người ở bến sông Châu'. Tác phẩm đã tái hiện chân thực cuộc sống và số phận con người hậu chiến tranh, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật dì Mây - một người phụ nữ thủy chung, nhân hậu.

Cứ tưởng rằng sau chiến tranh, con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn nhất. Thế nhưng, sau khi được hưởng tự do, vẫn có những nỗi đau đớn về thể xác và cả tinh thần hiện hữu trong cuộc sống. Câu chuyện về cuộc đời và số phận của dì Mây đã cho người đọc có cái nhìn sâu sắc về con người thời hậu chiến.

Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, thanh xuân tươi đẹp của dì Mây. Trước khi tham gia cách mạng, dì có mái tóc đen, mượt, nước da trắng hồng. Dì rất xinh đẹp khiến cho nhiều chàng trai để ý. Nhưng sau khi cuộc chiến kết thúc, dì trở về, tóc dì xơ, rụng nhiều. Thậm chí còn bước đi khó khăn do mảnh đạn 'phạt một chân'. Chiến tranh khốc liệt không chỉ cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp mà đau đớn hơn còn cướp đi cả tình yêu của dì. Ngày trở về, cũng là lúc chú San - người yêu dì đi lấy vợ. Mặc dù còn yêu nhưng dì vẫn dứt khoát từ chối 'Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ'. Câu nói đó chất chứa bao nhiêu nỗi lòng đau đớn, xót xa, tủi cực cho chính số phận mình của dì.

Ở dì Mây, ta thấy ánh lên nghị lực sống phi thường. Bước ra khỏi cuộc chiến, với những đau thương, mất mát cả về thể xác và tinh thần nhưng dì chưa bao giờ bi quan với cuộc đời. Đặc biệt dì luôn cố gắng sống có ý nghĩa, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Dù bị đạn phạt mất một bên chân nhưng hàng ngày vẫn giúp ông chèo đò, khám chữa bệnh cho người dân.

Không chỉ vậy, dì Mây còn là người phụ nữ thủy chung son sắt. Những ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào dì cũng viết tên chú San. Điều đó như chất chứa bao nỗi nhớ nhung, yêu thương của người con gái khi phải xa người yêu. Với dì Mây, hình ảnh người yêu luôn thường trực trong tâm trí, là động lực giúp dì cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Khi biết tin người yêu đi lấy vợ, dì ngỡ ngàng, đau đớn vô cùng. Tuy vậy, khi chú San muốn nối lại tình xưa thì dì dứt khoát từ chối 'Không!', 'Dì bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân'. Không phải dì không còn tình cảm với chú San, mà bởi vì dì đang nhận phần thiệt thòi về mình. Dì nguyện hi sinh hạnh phúc cá nhân để người mình yêu được hạnh phúc.

Không chỉ thủy chung, dì còn có tấm lòng yêu thương với tất cả mọi người. Những ngày chèo đò giúp ông, dì không bao giờ lấy tiền của lũ trẻ vì thương chúng đi học vất vả. Đặc biệt khi hay tin trạm xá thiếu người, dì đã đồng ý giúp đỡ. Những đêm mưa, đường đi khó khăn vô cùng dì vẫn đến tận nhà cứu chữa cho mọi người. Điều đáng cảm phục ở đây đó là người phụ nữ ấy bị mất một bên chân. Thế nhưng, dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên mà quên đi nỗi đau của chính mình. Ngay cả khi biết tin vợ chú San vượt cạn thiếu tháng đang nguy hiểm. Không nghĩ đến lời nói của thím Ba, dì vẫn cố gắng giúp cho cô Thanh vượt cạn. Khi thím Ba không may qua đời, dì đã đón thằng Cún bằng tất cả yêu thương về nuôi như con đẻ của mình. Thế mới thấy tấm lòng nhân hậu của dì thật rộng lớn.

Bằng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sống động, tác giả đã mang đến cho người đọc câu chuyện ý nghĩa. Bước ra từ chiến tranh khốc liệt, mang trong mình những nỗi đau không thể xóa mờ, nhưng họ vẫn luôn ánh lên những phẩm chất cao đẹp. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở mỗi người cần biết ơn, trân trọng đối với những thế hệ đi trước. 

Truyện ngắn 'Người ở bến sông Châu' giúp người đọc hiểu hơn về cuộc đời con người thời hậu chiến. Vẻ đẹp của dì Mây cũng chính là vẻ đẹp chung của người phụ nữ Việt Nam muôn đời. Qua tác phẩm, ta thấy thêm yêu, thêm trân trọng cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay.

Bài tham khảo 2

Đề tài hậu chiến đã không còn là đề tài xa lạ trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Là một nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã đem đến cho bạn đọc những góc nhìn mới về hiện thực cuộc sống sau chiến tranh qua truyện ngắn 'Người ở bến sông Châu'. Tác phẩm đã thể hiện một cách đầy chân thực hoàn cảnh và số phận của con người kể từ khi đất nước thống nhất.

Sau năm 1975, Nam Bắc về chung một nhà, cả đất nước vui mừng, reo vang khúc ca khải hoàn. Người ta tưởng rằng, kết thúc chiến tranh là kết thúc toàn bộ nỗi đau, mất mát. Thế nhưng không phải vậy, con người ta vẫn phải chiến đấu ngay cả trong thời bình, giống như cách mà dì Mây cố gắng vượt lên nỗi đau. Số phận của dì Mây trong tác phẩm cũng là hoàn cảnh của biết bao con người đi ra từ đống hoang tàn, đổ nát mà chiến tranh để lại.

Là một y sĩ Trường Sơn, dì Mây trở về với cơ thể khiếm khuyết. Người ta bảo nhau rằng 'cô y sĩ Trường Sơn bị mảnh đạn phạt một chân'. Lúc trước khi ra trận, dì Mây có mái tóc đẹp vô cùng, 'tóc dì đen óng mượt' đến nỗi chú San 'nấp bên hàng râm bụt nhìn trộm cũng phải giật mình'. Lúc chạy ngược chiều gió, 'tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây'. Vậy mà, khi trở về, tóc dì 'rụng nhiều, xơ và thưa'. Có lẽ, chiến tranh đã tàn phá sức khỏe của dì. Đồng thời, cướp đi vẻ đẹp tươi trẻ, cướp đi tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống của người con gái.

Không chỉ có số phận bất hạnh, phải chịu nỗi đau về thể xác, dì Mây còn sống trong nỗi dày vò, ám ảnh về mặt tinh thần. Chiến tranh gây ra biết bao bi kịch, tước đoạt đi hạnh phúc vốn có của con người. Ngày cô y sĩ xông pha ngoài mặt trận trở về bên bến sông Châu cũng là ngày người yêu cô - chú San đi lấy người khác. Biết được tin người mình thương đi lấy vợ, dì Mây xót xa, nghẹn đắng. Ngồi nói chuyện với ông bà mà tâm trí dì đặt bên nhà chú San. Dù rất yêu San nhưng dì Mây vẫn kiên quyết đoạn tình để chú về với vợ. Tác giả đã tạo nên tình huống éo le, trớ trêu giữa hai người. Có lẽ, trong suy nghĩ của mọi người, dì Mây đã bỏ mạng nơi chiến trường. Vì thế, chú San mới quyết định đi lấy vợ sau tháng ngày dài ngóng chờ tin tức từ người thương. Tình huống oái oăm ấy cũng chính là hiện thực trần trụi khi chiến tranh qua đi. Chiến tranh gây ra biết bao sự hiểu lầm không đáng có, là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cảnh chia lìa. Về sau này, ta còn thấy sự xuất hiện của chú Quang. Chú Quang cũng có tình cảm đặc biệt dành cho dì Mây. Biết được điều đó nhưng dì Mây tự ti về bản thân và quyết định không đáp trả. Dường như, những khiếm khuyết trên cơ thể mà chiến tranh để lại khiến con người ta không dám đi tìm hạnh phúc của riêng mình.

Đặc biệt, chiến tranh đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa, tang thương. Vì vướng bom bi trong lúc đun te nên thím Ba đã qua đời. Cái chết của Dì khiến ai nấy đều cảm thương, đau buồn không ngớt. Thằng Cún - con dì từ ấy cũng trở thành trẻ mồ côi.

Khác với văn học thời kì trước, văn xuôi Việt nam sau năm 1975 đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Con người trong văn chương không còn là con người mang vẻ đẹp toàn bích như cô Nguyệt trong 'Mảnh trăng cuối rừng' của nhà văn Nguyễn Minh Châu mà hiện lên với vẻ đẹp đời thường, dung dị và dì Mây trong tác phẩm cũng như thế. Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của dì Mây để lại cho người đọc biết bao niềm rung cảm, khâm phục.

Trước hết, dì Mây là một người con gái vô cùng chung thủy. Dù phải tạm rời xa tình yêu của mình là chú San để lên đường làm y sĩ Trường Sơn nhưng dì Mây vẫn luôn mang theo hình bóng của chú, 'trang nhật kí nào em cũng viết tên anh'. Tuy nhiên, khi biết chú San đã có vợ, dì Mây nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị 'Mây! Chúng ta sẽ làm lại', 'Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta về sống với nhau.'. Thái độ của dì Mây vô cùng kiên quyết, dứt khoát. Hành động 'bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân' bỏ mặc chú San lại đã minh chứng rõ nét cho điều đó. Dì Mây nhận phần thiệt về mình để người mình yêu được hạnh phúc. Câu nói 'Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!' khiến người đọc không khỏi cảm thấy xót xa. Dì khuyên chú San nên quay về với vợ, sống cho hạnh phúc 'Sự thể đã thế, cố mà sống cho vuông tròn'. Nếu dì đồng ý lời đề nghị của chú thì cả ba người sẽ đau khổ. Chính vì vậy, dì chấp nhận buông tay mối tình sâu đậm của mình để vun vén cho đôi vợ chồng mới cưới.

Mặc dù phải chịu nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng chưa bao giờ ta thấy dì Mây có ý định từ bỏ sự sống. Ở dì luôn ánh lên một nghị lực sống phi thường. Mất một chân, dì vẫn chống nạng, giúp ông chèo đò, vẫn tiếp tục sống sau cú sốc đầy đau đớn.

Đặc biệt, dì Mây còn là người có tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương. Kể từ ngày chèo đò giúp ông, dì chưa bao giờ lấy tiền đò của lũ trẻ cấp ba. Nghe thấy câu nói của chúng, dì còn cười trêu 'Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến nữa có lương rồi trả'. Những đêm mưa, đường đá khấp khểnh, dì vẫn miệt mài đến nhà khám bệnh cho mọi người. Thấy dì đi lại vất vả, ông trưởng trạm xá khuyên dì nên học đi xe đạp, ông sẽ rải đá mạt cho. Đáp lại lời ông, dì nói 'Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục.'. Câu trả lời ấy cho thấy dì rất giàu đức hi sinh, luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên bản thân. Vào một đêm mưa, vợ chú San vượt cạn thiếu tháng. Thấy Thanh rơi vào tình thế nguy hiểm, dì không mảy may quan tâm đến những lời thím Ba nói, sẵn sàng giúp vợ chú San sinh con. Ở trong hoàn cảnh của dì, việc đó không hề dễ dàng nhưng dì vẫn ân cần giúp đỡ. Đặc biệt, khi thím Ba không may qua đời do bom nổ, dì dang rộng vòng tay, chăm sóc, yêu thương thằng Cún. Dì Mây hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp, vừa kiên cường, mạnh mẽ, vừa bao dung, vị tha.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc cùng tình huống truyện độc đáo, lôi cuốn người đọc, tác giả Sương Nguyệt Minh đã tái hiện lại bức tranh đầy sống động về con người sau cuộc chiến. Bước ra khỏi đống đổ nát, tro tàn của chiến tranh, con người phải đối mặt, chịu đựng với biết bao giày vò, khổ sở. Tác phẩm cho thấy nỗi đau khổ, bất hạnh của con người kể từ khi đất nước thống nhất. Đồng thời, gửi gắm bài học về lòng biết ơn đến các thế hệ cha ông đã không tiếc tuổi thanh xuân cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc.

Hiểu về tác phẩm, ta càng thêm đồng cảm, thương xót với người lính. Từ đó, biết trân trọng cuộc sống hạnh phúc, ấm êm ngày hôm nay. Có thể nói, tác phẩm đã chạm đến trái tim người đọc bởi giá trị nhân văn, ý nghĩa.

1 88 lượt xem