TOP 11 bài Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc (HAY NHẤT 2024) - Kết nối tri thức
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc Ngữ văn 11 sách Kết nối tri thức hay nhất giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc để học tốt môn Ngữ văn 11.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Kết nối tri thức
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 1
Tác phẩm là một bài văn tế, được viết để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Tác phẩm kể lại công chiến đấu, sự hi sinh anh dũng của những nghĩa sĩ và bày tỏ nỗi đau thương, mất mát, lòng kính trọng, biết ơn của người ở lại đối với người đã khuất.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu làm để đọc tại buổi truy điệu những anh hùng nghĩa sĩ nông dân đã hi sinh trong trận tập kích đồn giặc ở Cần Giuộc vào năm 1861. Mặc dù diệt trừ được một số quan quân của giặc và bọn quan lại bán nước nhưng khoảng hai mươi nghĩa sĩ đã hi sinh quả cảm, để lại niềm xúc động lớn lao, khôn xiết trong lòng nhân dân. Chính vì lẽ đó, tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu cũng phần nào thể hiện tiếng lòng xót xa của quần chúng nhân dân đối với những người lính áo vải trong trận quyết chiến ở Cần Giuộc.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 2
Tác phẩm này là một bài văn tế, viết để tôn vinh những nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích tại đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Nó kể về cuộc chiến đấu dũng cảm, sự hi sinh của các nghĩa sĩ và thể hiện sự đau buồn, mất mát, lòng biết ơn của những người còn sống đối với những người đã ra đi.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 3
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc sáng tác trong hoàn cảnh thực dân Pháp nổ súng xâm lược ta, cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Cần Giuộc nổ ra và giành thắng lợi bước đầu. Sau đó giặc phản công dữ dội, 20 nghĩa sĩ bị giết chết. Bấy giờ, tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang đã yêu cầu Nguyễn Đình Chiểu viết 1 bài văn tế để đọc trong lễ truy điệu của các nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu luận bàn về lẽ sống chết: “Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ/ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ”. Tác giả vẽ ra bối cảnh thời đại với nhiều biến cố, bão táp: giặc được trang bị vũ khí tối tân, đã tàn sát biết bao người dân Nam Bộ.
Chính trong hoàn cảnh ấy đã thử thách tấm lòng của con người đối với đất nước. Người dân Nam Bộ đã không nề hà sống chết, đem thân mình chiến đấu chống lại kẻ thù. Họ sẵn sàng từ bỏ, hy sinh những gì quý giá nhất (tài sản, tính mạng) để đổi lại danh tiếng, tiếng thơm lưu truyền với muôn đời. Qua đó đã làm sáng tỏ chân lí của thời đại: Chết vinh còn hơn sống nhục.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 4
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được Nguyễn Đình Chiểu viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân đã anh dũng đứng lên chống giặc. Năm 1858, giặc Pháp đánh vào Đà Nẵng, nhân dân Nam Bộ đứng lên chống giặc. Năm 1861, vào đêm 14 -12, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc trên đất Gia Định, gây tổn thất cho giặc, nhưng cuối cùng lại thất bại. Bài văn tế tuy được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, song chính là những tình cảm chân thực của Đồ Chiểu dành cho những người đã xả thân vì nghĩa lớn.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 5
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc: là bài văn tế những người nông dân nghĩa sĩ đã hi sinh. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được viết theo thể phú Đường luật gồm bốn phần: lung khởi, thích thực, ai vãn, kết.
- Phần 1: Lung khởi (từ đầu đến tiếng vang như mõ): khái quát bối cảnh của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nông dân. Đất nước bị xâm lăng trong cái dữ dội, ác liệt. Súng giặc đã rền khắp núi sông. Trước sự làm ngơ của triều đình nhà Nguyễn đã đặt người nông dân vào thử thách lịch sử, một khung cảnh bão táp của thời đại, vận nước là thước đo lòng người, những biến cố chính trị lớn lao. Người nghĩa sĩ không coi trọng chuyện được mất, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.
- Phần 2: Thích thực (từ Nhớ linh xưa... đến tàu đồng súng nổ): kể về nguồn gốc, phẩm hạnh, công đức của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Họ là những người nông dân 100% mộc mạc, chất phác sau lũy tre làng nhưng suốt đời vẫn nghèo khó. Họ cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó, quen việc quốc, cày, bừa, cấy và hoàn toàn xa lạ với việc nhà binh: tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ… Mặc dù khi vào trận đánh họ có nhiều thiếu thốn nhưng họ tự nguyện đứng lên kiên quyết xông pha vào mặt trận: “nào đợi ai đòi ai bắt”, “ra sức đoạn kình”, “ra tay bộ hổ” và giành được nhiều thắng lợi.
- Phần 3: Ai vãn (từ Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng đến cơn bóng xế dật dờ trước ngõ): Bày tỏ lòng thương tiếc, sự cảm phục của tác giả và nhân dân đối với người nghĩa sĩ. Đó là tiếng khóc quặn lòng cho một thời đại bi thương: Già trẻ trai gái Trường Bình khóc,chùa Tông Thạnh khóc, cây cỏ khóc, sông Cần Giuộc khóc, tác giả khóc. Đó cũng là tiếng khóc thể hiện niềm tự hào.
- Phần 4: Khốc tận (Kết) đoạn còn lại: Ca ngợi linh hồn bất tử của các nghĩa sĩ. Tác giả đề cao quan niệm cao đẹp: Chết vinh còn hơn sống nhục. Nêu cao tinh thần chiến đấu, xả thân vì nghĩa lớn của nghĩa quân, họ ra trận không cần công danh, bổng lộc, gượng ép mà chỉ vì một điều rất đơn giản là lòng yêu nước, thương dân.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 6
Bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một tác phẩm nói về tiếng khóc từ đáy lòng của tác giả và tiếng khóc lớn của nhân dân trước sự hi sinh của những anh hùng. Văn tế là một loại văn thường dùng trong khi đọc tế cúng người chết nó có hình thức tế – tưởng. Bài văn tế có các phần: Lung khởi là cảm hứng khái quát về người chết, Thích thực hồi tưởng về công đức của người chết, Ai vãn than tiếc người chết và phần kết nêu ý nghĩa và lời mời của người cúng tế đối với linh hồn người chết. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc có đủ bốn phần như vậy.
Mở đầu bài thơ là một lời than:
“Hỡi ôi! Súng giặc đất rền lòng dân trời tỏ”
Tiếng than vang lên mà nghe sao đau thương đến thế. Tiếng than ấy cho ta một ý nghĩ về một cảnh tang thương chết chóc là cảnh chiến tranh tàn khốc với những người đã bị tử trận trên chiến trường. Ông trời có thấu hiểu lòng người, có thấu hiểu được nỗi tang thương đau xót trong lòng những người thân nhân của những người dân đã tử trận. Tiếng khóc bi tráng của tác giả xuất phát từ rất nhiều nguồn cảm xúc. Đó là thái độ cảm phục và niềm thương xót vô hạn của tác giả đối với người nông dân nghĩa sĩ.
Đó là những hình ảnh của những người dân chân lấm tay bùn cơm không đủ no áo không đủ ấm. Còn cuộc sống hàng ngày của họ thì được tác giả miêu tả bằng những câu văn mộc mạc dễ hiểu không mấy cầu kì về câu chữ, họ hiện lên là những người “cui cút làm ăn toan lo nghèo khó”, “chưa quen cung ngựa”, “việc cuốc việc cày việc bừa việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên tập súng tập mác tập cờ mắt chưa từng ngó”.
Từ đó cho ta một cái nhìn toàn diện đầy đủ nhất về người nông dân. Họ vốn là những người dân lao động bình thường và họ cực kì lương thiện không bao giờ muốn xảy ra chiến tranh, họ không đi cướp bóc không muốn đi xâm chiếm nước khác để làm giàu cho mình mà họ mãn nguyện về cuộc sống khốn khó nhưng hòa bình của mình. Có chăng ước mơ to lớn nhất của họ chính là đủ cơm ăn áo mặc. Thế nhưng khi tổ quốc lâm nguy súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương sứ xở thì họ lạ có một tinh thần kháng chiến sục sôi.
“Súng rền” cho thấy bọn giặc đã sử dụng những vũ khí rất tối tân chứ không phải là gậy gộc, là khiên là mác nữa cho thấy ở đây có một khoảng cách xa về vũ trang của cả hai bên. Nhà văn đã miêu tả được vẻ đẹp của người dân yêu nước sao mà giản dị đến thế: “Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng trông tin quan trường như trời hạn trông mưa mùi chinh chiến vấy vá đã ba năm ghét thói mọi như nhà hồn ghét cỏ”.
Nhà văn đã thành công trong khi khắc họa hình tượng nghĩa quân Cần Giuộc. Các từ miêu tả nguồn gốc xuất thân ngoại hình và hành động của người nghĩa sĩ nông dân cho thấy họ chỉ là những dân bình thường chất phác chăm chỉ nhưng khi nước nhà có giặc họ tự nhận về mình trách nhiệm phải bảo vệ đất nước sẵn sàng hi sinh vì nước. Cách thể hiện hình tượng người nghệ sĩ rất tỉ mỉ từ trang bị thô sơ hành động dũng cảm nguyện xả thân mình để bảo vệ đất nước.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 7
Tác phẩm này là một bài văn tế, viết để tôn vinh những nghĩa sĩ đã hy sinh trong trận tập kích tại đồn quân Pháp ở Cần Giuộc. Nó kể về cuộc chiến đấu dũng cảm, sự hi sinh của các nghĩa sĩ và thể hiện sự đau buồn, mất mát, lòng biết ơn của những người còn sống đối với những người đã ra đi.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 8
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, viết để tưởng nhớ công ơn của những người nông dân dũng cảm đã đứng lên chống giặc. Năm 1858, quân Pháp xâm lược Đà Nẵng, dân Nam Bộ đồng lòng chống lại giặc. Vào đêm 14 - 12 năm 1861, nghĩa quân tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, Gia Định, gây tổn thất cho kẻ thù, nhưng cuối cùng vẫn thất bại. Bài văn tế được viết theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định, nhưng chứa đựng tình cảm chân thành của Đồ Chiểu dành cho những người hy sinh vì nền nghĩa lớn.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 9
'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' của Nguyễn Du là một tác phẩm văn học nổi bật của văn học Việt Nam thế kỷ 19, chứa đựng triết lý cao đẹp về giá trị của học hành và sự hiếu học. Nguyễn Du không chỉ khuyên người đọc nên rèn luyện kiến thức một cách sâu rộng, mà còn nhấn mạnh vào ý nghĩa của việc áp dụng tri thức vào thực tiễn để góp phần xây dựng xã hội. Tác phẩm cũng tôn vinh tinh thần nghiêm túc trong học tập và lòng quyết tâm vươn lên của con người, coi đó là nền tảng quan trọng để phát triển cá nhân và nâng cao đất nước.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 10
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là một bài văn của nhà nghĩa sĩ Nguyễn Du, người Việt Nam nổi tiếng, được viết vào đầu thế kỷ 19. Bài văn này khẳng định tầm quan trọng của việc học hành và nâng cao tri thức trong việc phát triển bản thân và đất nước. Nguyễn Du khuyên người đọc rằng sự học hành không chỉ là việc học thuộc lòng kiến thức mà còn là khả năng áp dụng và kết nối tri thức để mang lại lợi ích cho xã hội. Bài văn này cũng ca ngợi tinh thần học hành và khí chất hiếu học, coi đó là yếu tố quan trọng giúp con người vươn lên trong đời sống và phát triển đất nước.
Tóm tắt Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc - Mẫu 11
đang cập nhật