Tác giả tác phẩm Chiều sâu của truyện Lão Hạc (Cánh diều 2024) Ngữ văn 8 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Chiều sâu của truyện Lão Hạc Ngữ văn lớp 8 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:
Nội dung bài viết
Tác giả tác phẩm: Chiều sâu của truyện Lão Hạc - Ngữ văn 8
I. Tác giả Ngô Văn Giá
- Tên thật: Ngô Văn Giá
- Sinh ngày: 07-05-1959
- Quê: Tân Yên- Bắc Giang
- Là nhà lý luận, phê bình văn học.
- Các tác phẩm và công trình đã công bố:
+ Một khoảng trời văn học (tiểu luận- phê bình) - NXB Giáo dục, 2000
+ Vũ Bằng- bên trời thương nhớ (chuyên luận) - NXB Văn hoá- TT, 2000
+ Vũ Bằng- Mười chín chân dung nhà văn cùng thời (Nghiên cứu, sưu tầm, giới thiệu) - NXB Đại học quốc gia, 2004
+ Đời sống và đời viết (tiểu luận, phê bình-chân dung) - NXB Hội nhà văn, 2005
+ Những biến đổi về giá trị văn hoá ở các làng ven đô Hà Nội trong thời kỳ đổi mới - NXB Chính trị Quốc gia, 2007
+ Viết cùng bạn viết (tiểu luận, phê bình- chân dung) - NXB Hội nhà văn, 2010
+ Người khác và tôi (tiểu luận, phê bình- chân dung) - NXB Hội nhà văn, 2013
+ Giáo trình Sáng tác truyện ngắn - NXB Lao động, 2015
+ Trần gian muôn nỗi (Viết ngắn) - NXB Văn học, 2019
+ Viết khi tâm đắc (Tiểu luận, phê bình, chân dung) - NXB Hội nhà văn, 2020
Và nhiều các đầu sách tham khảo bộ môn văn học danh cho các trường PTTH, CĐ và ĐH.
II. Đọc tác phẩm Chiều sâu của truyện Lão Hạc
[…] Cái hay của truyện là ở chỗ nào? Đâu là chỗ mà tài năng nghệ thuật của Nam Cao được thi thố? Tôi nghiệm ra rằng tác phẩm này có hai điểm mà tác giả dụng công nhiều nhất: Một, ông đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp. Hai, thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (lựa chọn giữa cái sống và cái chết cùng những hệ lụy của chúng).
Như chúng ta thấy, Nam Cao chỉ để cho lão Hạc tiếp xúc với ông giáo cả thảy hai lần – lần một đến thăm, trò chuyện, bộc lộ ý định bán chó; lần hai, ngay hôm sau khi bán chó, lão đến để gửi vườn và tiền. Toàn bộ câu chuyện là do nhân vật “tôi” – ông giáo – kể lại hai lần gặp gỡ chủ yếu của mình với lão Hạc, ngoài ra còn hai lần khác nữa: lần nói chuyện với vợ và lần nói chuyện với Binh Tư. Như vậy, hầu như từ đầu đến cuối truyện toàn thấy các cuộc trò chuyện mà thôi. nếu không cao tay, truyện sẽ trở nên đơn điệu, xuôi chiều, có nguy cơ nhạt nhẽo. Lựa chọn như vậy, Nam Cao khắc phục bằng cách nào? Đã trò chuyện thì ắt phải có nội dung, đương nhiên nội dung là quan trọng, nó cho ta biết có những chuyện gì trong đó. Song ở điểm này, Nam Cao dường như cho phơi bày ra hết, không giấu giếm, không nửa vời. Nhưng không chỉ có thế, có lẽ cái quan trọng hơn đối với tác giả là cách thức trò chuyện giữa hai người (bộc lộ qua điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, sự ngắt quãng, tâm thế người nói và tâm thế người nghe,…). Cả hai lần trò chuyện, ta thấy lão Hạc là người trong tâm thế của kẻ đi nhờ cậy cho nên lão nhẩn nha, rề ràm, vừa nói vừa nghĩ, vừa nghe ngóng, vừa băn khoăn thăm dò xem hiệu quả lời nói của mình đối với người nghe như thế nào,… Còn ông giáo – người nghe, vừa nghe, đánh giá, liên tưởng về thân phận mình, vừa cố nhận biết cho được những ý nghĩ thực của lão Hạc, vừa điều chỉnh những đánh giá của mình sao cho đúng đắn. Chính qua cái cách thức trò chuyện này, các nhân vật cứ dần dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy tư nội tâm của mình: một bên là người già cả đầy âu lo, toan tính một cách tội nghiệp theo tinh thần khắc kỉ và lòng bác ái Cơ đốc giáo, một bên là người biết lắng nghe, lòng đầy cảm thương, chia sẻ, muốn an ủi, vỗ về,… Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện. Vậy là không cần hành động, không cần biến cố (hai yếu tố này đã bị thiểu giảm tới mức tối đa), tác giả để cho tính cách nhân vật hiện lên qua hai cuộc trò chuyện, nhờ vào đó để triển khai tâm tưởng bề sâu của nhân vật. Chân dung nhân vật như móc vào tâm trí người đọc.
Đây cũng là một ưu thế của cây bút Nam Cao.
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật vào hai toạ
độ nhìn khác: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ,
ông giáo nghiền ngẫm triết lí về việc nhìn nhận và đánh
giá người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng
sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam
Cao thật cao tay — ông đưa ra một sự hiểu lầm bất ngờ, để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc, làm cho người đọc thoả mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn vẹn nguyên trong sạch đến lúc chết! Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải toả sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. Đây là một thủ pháp tự sự đã áp dụng một cách tinh tế, xử lí thật điệu nghệ và cũng thật hiện đại so với truyền thống.
Nếu để ý kĩ, ta nhận thấy ở phần đầu truyện có một đoạn người kể chuyện vốn là 'tôi' – ông giáo — bị thay thể bằng chính tác giả. Ông không nhờ vai người kể chuyện nữa, mà nhập thăng vào đời sống của lão Hạc (đoạn miêu tả lão ngồi uống rượu cưng nựng cậu Vàng). Đây là một “pha” tác giả soi quét cái nhìn trần thuật của mình vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của lão Hạc. Nhờ thế, củng cộng lực với các đường nét từ cái nhìn của người kể chuyện, thao tác này đã góp phần tạo dựng nên chân dung lão Hạc phong phú, sắc nét và có chiều sâu hơn. Vậy là chao đảo đi qua bốn điểm nhìn tự sự — tác giả, ông giáo, vợ ông giáo và Binh Tư — nhân vật lão Hạc từ xa lạ trở nên gần gũi, thân mật, sau đó lại bị ghét bỏ, bị hiểu lầm rồi cuối cùng được hiểu đúng và thân thương hơn, đau xót hơn. Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chỉ phối và liên kết các điểm nhìn khác.
Từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp của các nhân vật, tác giả đã gián tiếp đưa ra một tình thể lựa chọn của lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết. Sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào miệng hay không (còn bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được trong lương tâm của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn, nhưng chết phải chết như thế nào, chuẩn bị cho cái chết ra sao?... Cuối cùng, lão lựa chọn cái chết, đầu tiên lão để cho cậu Vàng chết trước. Sau đó mới đến lão. Lão âm thầm, tỉ mẩn chuẩn bị, dọn dẹp cho mình một con đường sạch sẽ, chu tất để bước đến nhà mồ (lão nhờ ông giáo giữ vườn khỏi bị ai tranh chiếm, nhòm ngó; nhờ ông cầm ba mươi đồng để cậy bà con lo ma cho lão). Lão đã chọn một cái chết trong còn hơn sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này, lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con lão và mới có thể chấm dứt kiếp sống héo úa, lay lắt của mình. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu Vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử mà lão muốn giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dữ dội, quyết liệt… Thương thay! Để bảo toàn nhân cách của mình, không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Không chỉ là một cái chết mà là hai: cậu Vàng – bạn tinh thần của lão – và chính lão. Mà chết để làm gì, nếu không phải là để cấy cái sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo hiệu điều gì hứa hẹn! Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này.
Nói chung, truyện của Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện; thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm trong đó (mặc dù chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dị, thậm chí trần trụi – có lẽ nhờ đội quân ngôn ngữ lấm láp, quẫy đạp của ông). Thế nhưng truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.
III. Tìm hiểu tác phẩm Chiều sâu của truyện Lão Hạc
1. Thể loại
Văn bản Chiều sâu của truyện Lão Hạc thuộc thể loại nghị luận văn học.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Xuất xứ: “ Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông”, NXB Giáo dục, 1997.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản có phương thức biểu đạt là nghị luận.
4. Bố cục văn bản Chiều sâu của truyện Lão Hạc
- Phần 1: từ đầu đến “…những hệ luỵ của chúng” -> Giới thiệu về Nam Cao và chiều sâu tác phẩm Lão Hạc
- Phần 2: Tiếp theo đến “…các điểm nhìn khác” ->Ý kiến 1 về tác phẩm Lão Hạc.
- Phần 3: Tiếp theo đến “…từ điểm then chốt này” -> Ý kiến 2 về tác phẩm Lão Hạc.
- Phần 4: Còn lại -> Khái quát lại văn bản.
5. Tóm tắt Chiều sâu của truyện Lão Hạc
Văn bản làm nổi bật tinh thần của nhân vật và giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm Lão Hạc thông qua các thông tin: nghệ thuật sáng tác của tác giả, cốt truyện, giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản bàn về tinh thần nhân vật, nhân đạo cao cả của tác phẩm Lão Hạc.
7. Giá trị nghệ thuật
- Các bằng chứng đa dạng, cụ thể, sinh động, phong phú.
- Hệ thống lí lẽ, ý kiến rất thuyết phục, xác thực và được trình bày theo một trình tự hợp lí.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Chiều sâu của truyện Lão Hạc
1. Luận đề
- Luận đề: Giá trị sâu sắc về tư tưởng và nghệ thuật tiềm ẩn trong tác phẩm Lão Hạc.
- Luận điểm:
+ Luận điểm 1: Nhà văn đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp tính cách nhân vật.
+ Luận điểm 2: Thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (giữa cái sống và cái chết cùng những hệ luỵ của chúng).
2. Mối quan hệ giữa luận điểm với luận đề trong văn bản
- Luận điểm của phần này gắn bó mật thiết với luận đề, giúp làm sáng tỏ luận đề của văn bản.
2.1 Luận điểm 1
- Lí lẽ và bằng chứng:
Lí lẽ |
Bằng chứng |
Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện |
Nêu ra số lần ông giáo và lão Hạc trò chuyện. Ông giáo là người kể chuyện. |
Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải tỏa sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. |
Phân tích cuộc trò chuyện giữa các nhân vật. |
Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chi phối và liên kết các điểm nhìn khác. |
Phân tích sự thay đổi mạch kể chuyện. |
=> Người viết sử dụng lí lẽ và bằng chứng để làm sáng tỏ các luận điểm chính trong văn bản rất thuyết phục, xác thực và trình bày theo trình tự rất hợp lí. Lí lẽ và bằng chứng được sử dụng ngay sau luận điểm chính mà nhờ đó vấn đề nghị luận được làm sáng rõ hơn.
2.2. Luận điểm 2
- Luận điểm được trình bày trong phần 3 đã đi sâu phân tích hoạt động giao tiếp của các nhân vật, về tình thế lựa chọn của lão Hạc trong truyện (giữa cái sống và cái chết cùng những hệ luỵ của chúng).
- Cách lập luận: Chặt chẽ giúp làm rõ hơn giá trị tư tưởng trong tác phẩm Lão Hạc.
3. Khái quát vấn đề nghị luận
- Vấn đề nghị luận được khẳng định: Truyện Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện.
- Trình tự phân tích truyện ngắn Lão Hạc trong văn bản này giống với trình tự phân tích bài thơ Cảnh khuya trong văn bản Vẻ đẹp của bài thơ Cảnh khuya.
- “Truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.”
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích tác phẩm Chiều sâu của truyện Lão Hạc
Nam Cao là một trong những cây bút hiện thực xuất sắc nhất của văn học hiện thực trước cách mạng. Các tác phẩm của ông sáng tác trên hai đề tài lớn là người trí thức và người nông dân, nhưng thành công hơn cả là khi ông viết về đề tài người nông dân. Viết về người nông dân, nhà văn có khuynh hướng khám phá, phát hiện những vẻ đẹp phẩm chất ẩn sâu trong con người họ. Truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm như vậy.
Trước hết về nhân vật lão Hạc, lão có số phận bi thảm nhưng ẩn sau đó là những phẩm chất cao đẹp, đại diện cho người nông dân. Số phận lão Hạc cũng là số phận chung của biết bao người nông dân trước cách mạng. Vợ lão chết sớm, lão ở vậy gà trống nuôi con. Đứa con lớn lên vì không lấy được người mình yêu nên phẫn chí bỏ nhà ra đi. Lão ở vậy một mình với cậu Vàng – kỉ vật người con trai để lại. Nhưng cuộc đời lão càng ngày lại càng bi đát hơn, lão bị ốm, lão tiêu tốn nhiều tiền dành dụm cho con, bởi vậy lão đành bán cậu Vàng – người bạn đã ở bên giúp lão vơi bớt nỗi buồn khi phải xa con. Khi bán cậu Vàng lão vô cùng đau đớn, ân hận. Nỗi ân hận đó được thể hiện qua đoạn văn miêu tả đặc sắc: cười như mếu, đôi mắt ầng ậng nước, mặt đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém mếu như con nít, hu hu khóc. Tình cảnh của lão thật đáng thương, lão luôn sống trong sự day dứt, dằn vặt bản thân.
Nhưng ẩn đằng đó chính là những phẩm chất cao đẹp của người nông dân lương thiện. Lão là một người giàu tình yêu thương, tình yêu thương đó được thể hiện ngay cả với một con vật: lão gọi chó là cậu Vàng, gọi nịnh như gọi một đứa trẻ, ông chăm sóc cậu Vàng chu đáo: cho ăn cơm trong bát như một nhà giàu, không chỉ vậy ông còn trò chuyện, mắng yêu cậu vàng, cậu Vàng làm lão bớt cô đơn, vơi đi nỗi nhớ con. Tình cảm sâu nặng của ông với cậu Vàng có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu thương con của lão Hạc, con chó là kỉ vật thiêng liêng mà người con để lại cho ông trước khi đi đến đồn điền cao su.
Tình phụ tử ở lão Hạc cũng vô cùng sâu sắc, thiêng liêng. Vì cảnh nghèo không cưới được vợ cho con, lão vô cùng đau đớn, bởi vậy bao nhiêu tiền của làm được lão đều dành dụm cho con, lão chịu kham khổ, để người đời chửi mắng chứ nhất định không chịu tiêu lạm vào tiền của con. Sau khi bị bệnh nặng, lão chỉ ăn khoai, hết khoai lão ăn củ chuối, rồi ăn sung luộc, rau má, củ ráy, nghĩa là vớ được thứ gì lão ăn thứ ấy,… Và cuối cùng lão lo lắng sẽ tiêu hết tiền cho con nên lão đành chọn cái chết để bảo toàn tài sản cho con trai mình. Cái chết đau đớn của lão Hạc xuất phát từ lòng thương con âm thầm mà lớn lao.
Mặc dù nghèo khổ nhưng lão luôn giữ lòng tự trọng. Lão không nhận bất cứ sự giúp đỡ của ai, ngay cả khi ông giáo đề nghị giúp, lão từ chối một cách hách dịch, bởi lão hiểu hoàn cảnh gia đình ông giáo cũng nghèo túng chẳng khác gì gia đình mình. Lòng tự trọng đó còn được thể hiện trong cách thức tìm đến cái chết của ông. Trước khi chết ông để lại tiền nhờ bà con lo ma chay, không muốn phiền hà đến hàng xóm. Lão chết bằng cách ăn bả chó, cái chết đau đớn, dữ dội như một lời tạ tội với cậu Vàng. Cái chết của lão Hạc chính là sự khẳng định cho sức sống bất diệt của nhân cách trong ông.
Ngoài nhân vật lão Hạc trong tác phẩm ta còn thấy nổi bật lên hình ảnh của một ông giáo nghèo, người bạn thân thiết của lão Hạc. Ông giáo có sự đồng cảm sâu sắc với cảnh ngộ đáng thương của lão Hạc: an ủi, động viên khi lão bán chó, chia sẻ nỗi buồn với lão Hạc, luôn tìm mọi cách làm cho lão khuây khỏa, lạc quan. Ông còn là người am hiểu tường tận nhất vẻ đẹp nhân cách của lão hạc: “Không cuộc đời chưa hẳn đã đáng buồn, hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Nghĩa khác ấy chính là con người có nhân cách cao đẹp nhưng lại phải chết vật vã, đau đớn và cái chết ấy lại càng làm sáng hơn nhân cách cao đẹp của lão.
Nghệ thuật kể chuyện xuất sắc: câu chuyện được kể bởi nhân vật tôi (ông giáo) người luôn bên cạnh lão Hạc, bởi vậy khiến câu chuyện trở nên chân thực, gần gũi, ngoài ra khiến mạch kể trở nên tự nhiên, linh hoạt, tạo điều kiện kết hợp tả, kể với bình luận một cách tự nhiên, sinh động. Giọng văn đa dạng, thay đổi linh hoạt. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện bất ngờ, hợp lí, những bước ngoặt của truyện giúp bộc lộ rõ tính cách, phẩm chất của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng là một điểm nhấn của văn bản: nhân vật được khắc họa qua diện mạo, ngôn ngữ đối thoại, diễn biến tâm trạng và qua lời nhận xét, bình luận của các nhân vật khác, bởi vậy chân dung nhân vật hiện lên chân thực, sinh động hơn.
Với nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, ngôn ngữ giản dị, lôi cuốn Nam Cao đã cho người đọc thấy chân dung số phận bất hạnh của người nông dân trước cách mạng, họ bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết. Nhưng đằng sau đó còn là chân dung tinh thần đẹp đẽ: giàu tình yêu thương và nhân cách cao đẹp.