Tác giả tác phẩm Hịch tướng sĩ (Cánh diều 2024) Ngữ văn 8 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Hịch tướng sĩ Ngữ văn lớp 8 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:

1 130 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Hịch tướng sĩ - Ngữ văn 8

I. Tác giả Trần Quốc Tuấn

- Trần Quốc Tuấn (1231-1300), tức Hưng Đạo Đại Vương.

- Ông là danh tướng kiệt xuất của dân tộc.

- Năm 1285 và năm 1288, ông chỉ huy quân đội đánh tan hai cuộc xâm lược của quân Nguyên-Mông

- Ông lập nhiều chiến công lớn: 3 lần đánh tan quân Nguyên Mông ở thế kỉ 13.

- Tác phẩm nổi tiếng : Binh thư yếu lược, Đại Việt sử kí toàn thư.

loading...

II. Đọc tác phẩm Hịch tướng sĩ

Ta thường nghe: Ký Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức, một chàng trai tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung; Cảo Khanh, một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa, các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được!

Các ngươi con nhà võ tướng, không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa, ta không nói đến nữa. Nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên mới đây.

Vương Công Kiên là người thế nào, tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập lại là người thế nào, mà giữ thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu, đường đường chống với quân Mông Kha đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu!

Cốt Đãi Ngột Lang là người thế nào, tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam chướng xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu trong vài tuần, khiến cho quân tướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt!

Huống chi ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau!

Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.

Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thuỷ thì ta cho thuyền, đi bộ thi ta cho ngựa; lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang ngày trước cũng chẳng kém gì.

Nay các người nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc thái thường để đãi yến nguy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú ruộng vườn, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; dẫu rằng ruộng lắm, vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc; vả lại vợ bìu con díu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều khôn mua được đầu giặc, chó săn tuy khoe khôn đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào! Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?

Nay ta bảo thật các ngươi nên nhớ câu: “đặt mồi lửa vào dưới đống củi” làm nguy cơ, nên lấy điều “kiềng canh nóng mà thổi rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ, có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai. Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mã vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?

Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là Binh thư yếu lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.

Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.

loading...

III. Tìm hiểu tác phẩm Hịch tướng sĩ

1. Thể loại

- Văn bản thuộc thể loại: hịch.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh

- Bài hịch được viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ 2 năm 1285.

- Bài hịch được viết nhằm khích lệ tướng sĩ học tập cuốn “Binh thư yếu lược”.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: nghị luận.

4. Ý nghĩa nhan đề

- Nguyên văn được viết bằng chữ hán: Dự chư tì tướng hịch văn 

\(\Rightarrow\) Hịch văn răn bảo các tì tướng, khích lệ lòng yêu nước, tinh thần trung nghĩa với chủ tướng của các tướng sĩ, khích lệ tinh thần trọng danh dự ở họ, từ đó củng cố ý chí chiến đấu, quyết tâm đánh giặc của toàn quân khi kẻ thù xâm lược đã ngấp nghé ngay cửa ngõ đất nước.

5. Tóm tắt văn bản Hịch tướng sĩ

Trước tình hình địch mạnh, ta yếu, Trần Quốc Tuấn đã có bài hịch động viên tướng sĩ. Ông đưa ra những tấm gương lịch sử về lòng yêu nước, trung nghĩa từ xa xưa, hay đời Tống Nguyên mới đây. Vị chủ soái vạch rõ tội ác của giặc và bày tỏ nỗi căm phẫn khi chưa tiêu diệt được kẻ thù. Ngài còn nêu mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, đồng thời phê phán những hành động sai của tướng sĩ, khẳng định những hành động đúng nên làm.

6. Bố cục văn bản Hịch tướng sĩ

- Bố cục của bài hịch:

+ Phần 1 (từ đầu đến “còn lưu tiếng tốt”): Nêu gương những trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.

+ Phần 2 (từ “Huống chi” đến “cũng vui lòng”): Tố cáo tội ác của kẻ thù, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.

+ Phần 3 (từ “Các ngươi” đến “không muốn vui vẻ phỏng có được không?”): Phân tích thái độ, hành động của các tướng sĩ.

+ Phần 4 (đoạn còn lại): Đưa ra các nhiệm vụ cụ thể, đồng thời khích lộ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ.

7. Giá trị nội dung

- Bài hịch là lời phản ánh chân thực nhất tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam ta trong suốt quá trình tham gia kháng chiến chống quân xâm lược. Qua đó, thể hiện lòng căm thù giặc, ý chí quyết tâm đánh đổ kẻ thù.

8. Giá trị nghệ thuật

- Bài hịch là một áng văn chính luận xuất sắc với cách đưa ra luận điểm, luận cứ chặt chẽ, rõ ràng, giàu hình ảnh, đầy sức thuyết phục.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Hịch tướng sĩ

loading...

1. Nêu gương sáng của trung thần nghĩa sĩ trong sử sách

- Các gương trung thần nghĩa sĩ hi sinh vì chủ: Kỉ Tín, Do Vũ, Dự Nhượng, Kính Đức, Mông Kha, Cốt Đãi Ngột Lang...=> nhằm ca ngợi các trung thần nghĩa sĩ đã lưu danh sử sách, để lại tiếng thơm muôn đời, đồng thời giáo dục lòng trung quân ái quốc của các tướng sĩ.

2. Tình hình đất nước hiện tại, nỗi lòng của chủ tướng

a. Tình hình đất nước hiện tại

- Tội ác và sự ngang ngược của giặc: Đi lại nghênh ngang, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, thu bạc vàng…=> bạo ngược, tham lam, vô đạo.

- Nghệ thuật:

+ Ngôn từ gợi hình, gợi cảm: Nghênh ngang, uốn lưỡi

+ Hình ảnh ẩn dụ: lưỡi cú diều, thõn dê chó

+ Giọng văn mỉa mai, châm biếm

⇒ Khắc hoạ sinh động hình ảnh kẻ thù, gợi cảm xúc căm phẫn cho người đọc, bộc lộ sự căm ghét, khinh bỉ.

b. Nỗi lòng chủ tướng

- Được thể hiện rõ nét qua phần điệp với những câu văn biền ngắn gọn đối xứng cân chỉnh : “Ta thường tới bữa quên ăn…ta cũng cam lòng”

- Nghệ thuật:

+ Dựng nhiều dấu phẩy và dấu chấm phẩy

+ Nhiều động từ chỉ trạng và hành động mãnh liệt như: Quên ăn, vỗ gối, xẻ thịt, lột da, nuốt gan, uống máu…

+ Giọng văn thống thiết, tình cảm

⇒ Tác dụng:

+ Cực tả niềm uất hận dâng lên trong lòng người chủ tướng

+ Khơi gợi sự đồng cảm ở người đọc, người nghe.

3. Chủ tướng phê phán biểu hiện sai lầm trong hàng ngũ quân sĩ, bộc lộ nỗi lòng mình và kêu gọi tướng sĩ

a. Phê phán sai lầm của tướng sĩ

- Phê phán hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan trước vận mệnh đất nước.

- Ham thú vui tầm thường: chọi gà, cờ bạc, săn bắn, ruợu ngon...

b. Nỗi lòng người chủ tướng

- Lời khuyên:

+ Biết lo xa

+ Tăng cường võ nghệ

⇒ Chống giặc ngoại xâm.

- Chủ tướng để khích lệ tinh thần trung quân ái quốc

- Cùng cảnh ngộ: khích lệ lòng ơn nghĩa, thuỷ chung của người chung hoàn cảnh.

- Thể hiện thái độ:

+ Khuyên răn, bày tỏ thiệt hơn

+ Nghiêm khắc cảnh báo

+ Mỉa mai, chế giễu

c. Kêu gọi tướng sĩ

- Vạch rõ ranh giới giữa hai con đường chính và tà ⇒ kêu gọi, khích lệ tinh thần tướng sĩ.

V. Các đề văn mẫu

Hịch Tướng Sĩ - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn | Việt Nam Sử Lược - Trần  Trọng Kim - P.0 - YouTube

Đề bài 1: Phân tích Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn

Nhắc đến Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn là nhắc đến một vị tướng kiệt xuất với khả năng lãnh đạo tài ba và tấm lòng yêu nước thiết tha. Bằng tài năng và bản lĩnh cầm quân của mình mà ông đã dành nhiều thắng lợi vẻ vang cho nhân dân nhà Trần. Năm 1285, vào trước khi diễn ra cuộc kháng chiến Mông- Nguyên, ông đã viết nên bài Hịch tướng sĩ nhằm khích lệ tinh thần đấu tranh và học tập của các tướng sĩ trong quân đội. Đây thực sự là một áng văn bất hủ thể hiện rõ tư tưởng yêu nước và lòng quyết tâm chống lại kẻ thù xâm lược.

Mở đầu lời kêu gọi, tác giả đã dẫn ra hàng loạt các vị anh hùng nghĩa sĩ trung quân ái quốc như Kỉ Tín, Dự Nhượng, Do Vu, Kính Đức,.....Họ đã không ngại cái hi sinh cũng không tham thói nữ nhi, tửu sắc, một lòng phò trợ các vị vua, tướng lĩnh của mình. Đó còn là Vương Công Kiên lãnh đạo đội quân tuy nhỏ mà khiến quân Mông Cổ phải rút lui sau bao tháng cầm cự, là Cốt Đãi Ngột Lang xông pha nghìn trùng đi đánh bại quân Năm Chiếu.

Tất cả họ đều là những gương sáng, lưu danh sử sách muôn đời, từ trước đến nay, hào kiệt, anh tài đâu kể hết. Đó là một niềm tự hào của Trần Quốc Tuấn khi nghĩa về thế hệ đi trước đồng thời như một lời nhắc nhở, khích lệ các tướng lĩnh tự xem lại bản thân mình, cố gắng hết mình lập công danh cho đất nước, nhân dân.

Sau khi nêu gương các anh tài nghĩa sĩ, Trần Quốc Tuấn tiếp tục nêu rõ thực trạng của đất nước giữa buổi thời loạn lạc, quân giặc tàn ác :'Lén nhìn sứ ngụy đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn tấc lưỡi cú diều mà lăng nhục triều đình; đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vương mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai họa về sau. Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột'.

Sự căm phẫn tội ác tham tàn của bọn giặc khiến tác giả vạch trần sự bạc nhược, ích kỉ, đê hèn của chúng. Quân giặc ngang ngược coi trời đất bằng vung, chẳng màng đến đời sống khổ cực, lầm than của bao người mà nhẫn tâm bòn rút sức lực, của cải của nhân dân. Nỗi tàn ác ấy trời đất đã rõ, muôn người đều biết, vậy mà chúng vẫn điêu ngoa, xảo trá, điều đó càng khiến vị tướng đau đáu nỗi lòng, lo lắng cho vận nước, cho nhân dân: 'Ta thường tới bữa quên ăn......ta cũng vui lòng'. Một nỗi niềm khôn tả của tấm lòng kẻ yêu nước.

Vì thương dân, vì lo sợ rằng rồi quân giặc sẽ càng hống hách mà ngày đêm không ngủ được, lòng đau đớn thấy, mối hận quân thù càng ngày càng lớn. Ý thức dân tộc càng khiến vị tướng lĩnh thêm bản lĩnh, nguyện hi sinh cả thân xác mình để giết chết lũ quân thù ngạo mạn kia mới mãn nguyện, vui lòng. Vì đất nước yên bình thì tính mạng có đáng là bao, đó là một tâm hồn cao đẹp của một trung thần, hào kiệt.

Bằng giọng tâm tình và chân thành, tác giả nhắc lại những ân tình của một vị lĩnh tướng với nghĩa quân của mình. Ông xem họ như huynh đệ, như người thân ruột thịt, cùng nhau chia sẻ những khó khăn, thiếu thốn, cùng nhau xông pha chiến trận, vui cười, ai cũng được đối đãi tử tế, chân tình biết bao: 'Các ngươi ở cùng ta....ngày trước cũng chẳng kém gì'.

Sau đó, Trần Quốc Tuấn thẳng thắn chỉ ra những điều đáng trách của các nghĩa sĩ, họ có những ý nghĩ tầm thường, thiếu trách nhiệm khi nghiễm nhiên ăn chơi, vui đùa trước cảnh nhân dân lầm thân, loạn lạc. Đồng thời, khẳng định những hậu quả vô cùng đau lòng khi giặc Mông xâm chiếm: 'Nếu có giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc...... các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không?'.

Bằng giọng văn nghiêm khắc, lời bày tỏ thống thiết, chân thành Trần Quốc Tuấn mong muốn chấn chỉnh suy nghĩ, hành động của các nghĩa sĩ trong quân đội mình. Phải nhận thức đúng đắn vào trò và trách nhiệm của mình, hành động vì nghĩa lớn, vì việc trọng, không vì những đam mê, cám dỗ tầm thường mà bỏ bê đất nước, bỏ bê bản thân mình.

Từ đó, Trần Quốc Tuấn tiếp tục khuyên răn, giải thích, hướng dẫn những hành động cần phải làm, nên làm của các quân đội ta lúc bấy giờ với những thành quả đạt được nếu tích cực rèn luyện 'Nay ta chọn lọc binh pháp các nhà hợp thành một tuyển, gọi là Binh Thư Yếu Lược. Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời ta dạy bảo, thì trọn đời là thần tử; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời ta dạy bảo thì trọn đời là nghịch thù'.

Bài hịch tuy ngắn gọn nhưng đã phản ánh được tinh thần của thời đại, hào khí Đông A. Hịch tướng sĩ chứa chan tấm lòng yêu nước, nỗi căm hận quân thù và tinh thần quyết thắng. Với những lời lẽ sắc bén, hợp lý, chân tình, Trần Quốc Tuấn đã lay động được tấm lòng của hàng ngàn nghĩa sĩ, thôi thúc họ sống và rèn luyện, chiến đấu hết mình vì nước Việt thân yêu.

Đề bài 2: Tinh thần yêu nước của Trần Quốc Tuấn qua văn bản Hịch tướng sĩ

Trần Quốc Tuấn, còn được gọi là Hưng Đạo Vương, là một vị tướng xuất sắc, văn võ cùng vượt trội, đã có đóng góp đáng kể cho dân tộc ta. Năm 1285, trước cuộc chiến chống lại quân Mông Nguyên lần thứ hai, ông đã viết “Hịch tướng sĩ” để khích lệ và kêu gọi các tướng sĩ đứng lên bảo vệ tổ quốc. Bài hịch này thể hiện rõ tình yêu nước mãnh liệt và sâu sắc của một vị tướng tài ba.

Trần Quốc Tuấn đã sử dụng các tấm gương anh hùng trong lịch sử Trung Quốc để kích thích lòng yêu nước và tình yêu quân ái của các tướng sĩ. Có những người là tướng lĩnh như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng; và cũng có những người bình thường như Thần Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh. Cách nêu gương này rất toàn diện! Nó có tác dụng khích lệ nhiều đối tượng, ai cũng có thể trở thành một người trung nghĩa được ghi danh trong lịch sử và sẽ trường tồn mãi mãi. Trong lịch sử của nước Nam, chúng ta không thiếu anh hùng, nhưng Trần Quốc Tuấn chỉ nêu ra những tấm gương của Bắc sử. Điều này cho thấy ông có một cái nhìn rất phóng khoáng: không cần phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám hy sinh cho chủ nghĩa, vua chúa và đất nước đều xứng đáng được ca ngợi.

Sau khi nêu các tấm gương lịch sử, Trần Quốc Tuấn quay lại với hiện thực “thời đại loạn lạc” và “những khó khăn của đất nước”. Đọc tác phẩm này, chúng ta có thể cảm nhận được những lời lẽ sắc bén, tiết lộ bộ mặt của kẻ thù. Họ không chỉ coi thường chúng ta mà còn xỉ nhục và lăng mạ triều điều từ vua đến quan. Sự tức giận và khinh bỉ của Hưng Đạo Vương được thể hiện rõ trong những ẩn dụ như “lưỡi cú diều”, “thân dê chó”, “hổ đói”, khi ông đặt chúng ngang hàng với lũ súc sinh không có phẩm giá. Từ đó, Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra sự nhục nhã và sự đánh đạp tình yêu quốc gia, đồng thời khơi dậy nỗi căm thù giặc trong tâm hồn các tướng sĩ.

Trước tội ác kẻ thù và nhục đất nước, Trần Quốc Tuấn đã cảm thấy “ta thường quên ăn, đêm đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa” và “chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Những hành động mạnh mẽ này không chỉ thể hiện sự căm thù kẻ thù mà còn là ý chí quyết chiến và quyết thắng, một sự sống chết cùng quân thù. Hơn nữa, ông còn sẵn lòng hy sinh cho sự nghiệp đánh đuổi xâm lược và giành lại độc lập cho Tổ quốc: “Dù phơi trăm thân ngoài cỏ, gói nghìn xác trong da ngựa, ta cũng sẽ vui lòng”. Tất cả tâm trạng và cảm xúc trong ông đều đạt đến cực điểm! Đoạn văn này như trào ra từ trái tim yêu nước và căm thù, được viết bằng máu và nước mắt. Nó trở thành ảnh ám ánh suốt ngày lẫn đêm, khao khát hành động giết kẻ thù, tình yêu nước cháy bỏng trong ý chí hi sinh để làm sạch nhục nhã cho đất nước. Câu văn chính luận đầy cảm xúc và hình ảnh đã miêu tả hình ảnh anh hùng yêu nước và ảnh hưởng sâu sắc đến tâm trạng người tướng sĩ.

Không chỉ dừng lại ở đó, Trần Quốc Tuấn còn chăm sóc, chia sẻ và theo dõi các tướng sĩ dưới quyền trong cuộc chiến và thời gian bình. “Không có áo, ta sẽ cho áo. Không có cơm, ta sẽ cho cơm. Quan nhỏ, ta sẽ thăng chức. Lương ít, ta sẽ cấp bổng,…”. Chỉ cần nhìn điều đó, ta đã hiểu rõ ông là một tướng quân như thế nào! Dựa trên mối quan hệ ôn ái ấy, Trần Quốc Tuấn không chỉ tận tâm hướng dẫn mà còn chỉ trích mạnh mẽ thái độ và hành động sai trái của các tướng sĩ vô trách nhiệm trước tương lai của đất nước, lơ là trước kẻ thù “nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết xấu hổ. Làm tướng triều đình phải bảo vệ quân giặc mà không biết tức giận; nghe nhạc thái dương để đãi yến giả mạo mà không biết căm phẫn”. Sai lầm tiếp theo là cảnh hưởng vui vẻ: say mê chọi gà, đánh bạc, thú vui vườn ruộng, vật chất, yêu thương vợ con,… Đồng thời, ông cũng rõ ràng chỉ ra hậu quả của những hành động đó: tất cả sẽ mất hết, từ chung cho đến riêng, từ chủ tướng đến tướng sĩ hay thậm chí cả danh tiếng, tổ tiên, ngôi mộ của cha mẹ… Trần Quốc Tuấn phê phán nghiêm khắc bắt nguồn từ tình yêu chân thành với tướng sĩ và niềm đam mê cháy bỏng dành cho Tổ quốc. Tất cả đều nhằm đánh bại những ý niệm dao động, bàng quan để áp đảo tinh thần quyết chiến và quyết thắng, đó cũng chính là tư tưởng chủ đạo của bài viết, là thước đo cao nhất và tập trung nhất của tình yêu nước trong hoàn cảnh thời điểm đó.

Cuối cùng ông nêu ra hai viễn cảnh: nước còn và nước mất, họa và phúc. Họa có thể như một thứ nhỡn tiền, chỉ có điều chúng khác nhau một trời một vực. Điều quyết định nằm ở thái độ, trong sự dứt khoát chọn con đường: ăn chơi hay gác lại thú ăn chơi? Nhận thức được phải trái, đúng sai nhưng thước đo cuối cùng phải là hành động. Hành động ấy rốt cuộc là “chuyên tập sách này” – cuốn Binh thư yếu lược hay là khinh bỉ nó. Chăm chỉ học hành, tập luyện “mới chỉ là đạo thần chủ” còn nếu không, nếu trái lời dạy bảo của người uy quyền thống lĩnh toàn quân “tức là kẻ nghịch thù”. Một cách lập luận tuyệt vời của Trần Quốc Tuấn! Những lời văn đó đã tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của các tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy chỉnh tề đứng vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng.

Lịch sử đã chứng minh, ngay sau khi bài Hịch được công bố, cả đêm hôm đó ba quân tướng sĩ không ngủ, họ mài gươm cho thật sắc, họ thích vào cánh tay hai chữ “Sát Thát”, họ hoa chân múa tay đòi gấp gấp lên đường đánh giặc, trong tim họ như có một ngọn lửa đang rừng rực cháy.

“Hịch tướng sĩ ” của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu hình tượng và cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ. Trần Quốc Tuấn cùng với áng văn Thiên Cổ Hùng Văn sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian.

1 130 lượt xem