Tác giả tác phẩm Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ? (Cánh diều 2024) Ngữ văn 8 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ? Ngữ văn lớp 8 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:
Nội dung bài viết
Tác giả tác phẩm: Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ? - Ngữ văn 8
I. Tác giả Dương Trung Quốc
- Dương Trung Quốc (2/6/1947) là nhà nghiên cứu lịch sử và chính trị gia người Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam, là một trong 21 người ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam trúng cử).
- Năm 2016, ông là ứng cử viên đại biểu Quốc hội do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu ứng cử.
- Ông nổi tiếng vì những phát biểu thẳng thắn của mình trong các kỳ họp quốc hội. Ông có bằng cử nhân chuyên ngành lịch sử, là Tổng thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, Tổng Biên tập tạp chí Xưa & Nay và chủ tịch Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Hà Nội.
- Ông còn là đại biểu Quốc hội thâm niên của Việt Nam qua bốn khóa XI, XII, XIII, XIV thuộc đoàn đại biểu tỉnh Đồng Nai.
II. Đọc văn bản Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?
[...] Hãy đọc lại Đại cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiếu đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên, mỗi bên xưng đế một phương,
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Nhà bác học Lê Quý Đôn khi viết về dân tộc của mình luôn nói tới niềm tự hào 'Nước Nam ta nổi tiếng là văn hiến...', 'văn vật điển chương rất đẹp, không kém gì Trung Quốc'.
Ngô Thời Nhậm đi sứ phương Bắc, lúc trở về làm bài thơ Hoản nhĩ ngâm (Mỉm cười mà ngâm ngợi) thốt lên niềm tự hào 'May mắn thay ! Chúng ta được sinh ra ở nước Nam... chớ bảo rằng ta kém văn minh...'. Phan Thanh Giản đi sứ Tây kinh, tàu đến một cảng biển ngoại quốc, theo thông lệ phải giương quốc kỳ của sứ đoàn, Phan bèn lấy tấm lụa rồi dùng son mà viết 2 chữ lớn là 'Đại Nam' treo lên mũi tàu mà biểu trưng niềm tự hào dân tộc nơi đất khách quê người...
Những chuyện như thế trong sử sách nhiều lắm. Không có niềm tự hào ấy chúng ta không tồn tại được, và chính sự phấn đấu để tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam đã làm nên niềm tự hào đó.
Ngót trăm năm đô hộ của thực dân Pháp là một nỗi nhục lớn của dân tộc Việt Nam sau hơn một thiên niên kỷ tự chủ, hơn mười lần đánh thắng mọi thế lực ngoại xâm. Đến thế kỷ XIX, chỉ vài trăm tên lính đánh thuê đã hạ nổi thành Hà Nội có những người anh hùng như Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu cầm quân rồi phải tự vẫn cho khỏi thẹn với núi sông. Những bài học trên ghế học trò 'Tổ tiên ta là người Gô-loa' mà thực dân nhồi sọ. Thảm cảnh của những người cu li Việt phải tha phương cầu thực ở những đồn điền hải ngoại và của những trai tráng người Việt sang làm bia đỡ đạn bên trời Âu trong hai cuộc đại chiến cũng như sự khốn cùng của nhân dân dưới ách áp bức của thực dân và phong kiến... đã dồn nén lòng tự ái dân tộc thành một sức mạnh phi thường khi có được ngọn cờ tụ nghĩa. Từ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học... đến Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đều thấm cái nỗi nhục mất nước để tạo nên sức vùng dậy của cả một dân tộc giành quyền làm chủ của mình.
Dân tộc ấy đã công khai tuyên bố quyền tự chủ của mình trên những nguyên lý phổ quát của nhân loại. Và dân tộc ấy đã tự chứng minh sức mạnh của mình bằng ba cuộc chiến tranh vệ quốc liên tiếp trong hơn 4 thập kỷ với biết bao nhiêu xương máu khi đã không còn con đường lựa chọn nào khác ngoài ý chí 'quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh'.
Nhưng điều gì khiến cho công cuộc 20 năm Đổi mới được biểu dương như những thành tựu to lớn mà có người còn sánh với những chiến công của lịch sử giữ nước, mà cuối cùng chúng ta vẫn không tránh được nguy cơ tụt hậu? Ai cũng biết giữ được mức tăng GDP thuộc loại nhất nhì khu vực, đặc biệt là giữ được sự ổn định về an ninh là một cố gắng rất lớn. Nhưng mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa vời. Phải tìm cho ra những lý do của sự tụt hậu mới mong thoát được nguy cơ tụt hậu.
Đương nhiên, chiến tranh luôn được viện dẫn làm lý do hàng đầu. Chiến tranh tàn phá của cải vật chất để lại những hậu quả rất nặng nề. Chiến tranh mang lại nhiều đau thương mất mát, kể cả những di chứng lâu dài cho con người... Những lý do ấy đều thấy được, cân đong đo đếm được và trên thực tế ta đã có nhiều thập kỷ khắc phục. Nhưng còn có một lý do mà không phải là khó thấy. Đó chính là nếp nghĩ và hành xử. [...]
Cách hành xử và tâm thế của chúng ta dường như luôn mặc cảm Việt Nam giờ đây là nước nhỏ. Không ít những phát biểu của các quan chức luôn khiến ta nghĩ rằng Tổ quốc của mình giống như những địa phương mong được xếp vào diện nghèo hay vùng sâu vùng xa của thế giới để được hưởng những ưu tiên được trợ giúp, mà không thấy nỗi hèn nhục của một nước nghèo và tụt hậu.
Lại nhớ đến điều mà vị Đại tướng góp phần đánh thắng hai đế quốc to nhắc nhở: Có một thế hệ hàng ngày nhìn vết đạn của ngoại xâm trên thành Cửa Bắc để nuôi chí rửa sạch nỗi nhục mất nước. Bây giờ, nếu mỗi ngày, cùng với dự báo thời tiết chúng ta công bố thứ hạng về trình độ phát triển cùng những món tiền nợ nước ngoài để thấm được cái nỗi nhục tụt hậu, chúng ta mới chiến thắng nghèo hèn để vươn lên cho xứng đáng với dân tộc của mình...
Tôi đã gặp hai con người, hai nhà doanh nghiệp quyết định đặt tên cho những công trình và thương hiệu của mình bằng những quốc danh thời xa xưa. Một người đặt cho cái không gian tâm linh của một khu công viên văn hóa rất rộng lớn ở Bình Dương là 'Đại Nam quốc tự'. Còn một người là chủ một hãng bia mang tên 'Đại Việt', cơ sở nộp ngân sách lớn nhất của tỉnh Thái Bình. Hỏi vì sao lại đặt tên như vậy, cả hai đều nhắc đến tâm thế của người xưa về niềm tự hào dân tộc, rằng chính vì niềm tự hào ấy mà ông cha ta đã để lại cho thế hệ chúng ta cả một cơ đồ, một giang sơn gấm vóc. Cả hai đều chất vấn tôi bằng một câu hỏi: 'Vậy thì Việt Nam có phải là một nước nhỏ hay không?'. Và cả hai đều cho rằng nếu tâm thế của ta nhỏ thì đáng là nước ta nhỏ, nếu chỉ bó mình trong những ước vọng chật hẹp thì mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu là vô vọng. Còn như tâm thế ta lớn thì dám làm cái lớn và sẽ làm cho nước ta lớn, như cha ông ta đã tư duy và hành xử.
Viết bài báo này, tôi cũng muốn bạn đọc cùng chia sẻ với cái câu hỏi sâu sắc: 'Việt Nam là nước nhỏ hay không nhỏ?'.
III. Tìm hiểu tác phẩm Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: nghị luận.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh
- Trích trong diễn đàn “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ” được báo Thanh Niên mở ra từ ngày 27/3 đến 30/6/2006.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: nghị luận.
4. Tóm tắt văn bản
Văn bản “Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ” là bài viết được trích trong diễn đàn được báo Thanh Niên mở ra từ ngày 27/3 đến 30/6/2006 do ông Dương Trung Quốc phát biểu. Tại đây, tác giả đã đưa ra những dẫn chứng, lập luận hợp lí, đầy sức thuyết phục. Thứ nhất, tác giả đề cập đến lịch sử, sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Tiếp theo, ông đưa những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước, khiến đất nước đang có nguy cơ thụt lùi. Cuối cùng, Dương Trung Quốc kết lại vấn đề bằng việc mở ra tầm nhìn, cách nhìn nhận về đất nước, tác động đến người đọc với mong muốn dựng xây đất nước ngày một phát triển hơn.
5. Bố cục văn bản
- Bố cục của bài:
+ Phần 1 (từ đầu… niềm tự hào đó): Sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.
+ Phần 2 (tiếp theo… “Tổ quốc quyết sinh”): Bằng chứng chứng minh cho sức mạnh của đất nước Việt Nam khi trải qua các cuộc chiến tranh suốt hơn bốn thập kỉ qua.
+ Phần 3 (tiếp theo…dân tộc của mình): Nguyên nhân dẫn đến nguy cơ thụt lùi của đất nước.
+ Phần 4 (phần còn lại): Tâm thế lớn, cách nhìn nhận về đất nước.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản bàn về vấn đề “Việt Nam là nước nhỏ hay không nhỏ?”, qua đó giúp cho mỗi công dân Việt Nam có cái nhìn toàn diện, khách quan, chân thực nhất về vấn đề này trong xã hội ngày nay.
7. Giá trị nghệ thuật
- Lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén với dẫn chứng tiêu biểu, thuyết phục.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?
1. Sự tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam và những minh chứng trong bốn thập kỉ
- Phần (1) và (2) của bài viết nhắc lại lịch sử (trong bài Đại cáo Bình Ngô của tác giả Nguyễn Trãi, các công lao xây dựng, giữ nước của các vị anh hùng thời xưa,…) với mục đích giúp người đọc hiểu rõ về thời kì, con người đó đã đấu tranh, hi sinh để đánh đổi được một đất nước như ngày hôm nay, tự hào về lịch sử hào hùng đó => tạo nên sức mạnh của một dân tộc trong những giai đoạn lịch sử quan trọng đó chính là niềm tự hào, tự tôn dân tộc.
2. Nguyên nhân dẫn đến nguy cơ thụt lùi của đất nước
- Nguyên nhân: Chiến tranh tàn phá của cải vật chất, để lại những tổn thất nặng nề và cách suy nghĩ và hành xử cửa con người. “Cách hành xử và tâm thế của chúng ta dường như luôn mặc cảm Việt Nam giờ đây là nước nhỏ. Không ít những phát biểu của các quan chức luôn khiến ta nghĩ rằng Tổ quốc của mình giống như những địa phương mong được xếp vào diện nghèo hay vùng sâu, vùng xa của thế giới để được hưởng những ưu tiên, trợ giúp, mà không thấy nỗi hèn nhục của một nước nghèo và tụt hậu.”
- Các lí lẽ, bằng chứng khách quan:
+ Bây giờ, nếu mỗi ngày, cùng ....chúng ta mới chiến thắng nghèo hèn để vươn lên cho xứng đáng với dân tộc của mình,....nếu chỉ bỏ mình bỏ mình trong những ước muốn chật hẹp thì mục tiêu thoát khỏi nguy cơ tụt hậu là vô vọng. Còn như.....hành xử.
+ Lời nhắc nhở của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hai nhà doanh nghiệp.
3. Tâm thế lớn, cách nhìn nhận về đất nước
- Tâm thế lớn thì dám làm cái lớn và sẽ làm cho nước ta lớn, như cha ông ta đã tư duy và hành xử.
=> Ý nghãi với thế hệ trẻ ngày nay: tác động đến nhận thức và hành động trong việc giúp đất nước phát triển đi lên.
- Để có thể thoát khỏi tâm lí và cách hành xử tự ti của “một nước nhỏ”, chúng ta cần nhìn vào lịch sử, học hỏi cha ông ta, cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức, để trong tương lai, ngày gần nhất ta sớm trở thành những công dân có ích cho xã hội, phát triển đất nước giàu mạnh hơn.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Đoạn văn trình bày quan điểm của em về vấn đề Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?
“Nước Việt Nam ta nhỏ hay không nhỏ?” - có lẽ đó là câu hỏi mà nhiều người Việt Nam vẫn trăn trở. Nước Việt Nam có diện tích lãnh thổ không lớn, nền kinh tế thuộc loại đang phát triển. Con người Việt Nam với ngoại hình hạn chế (chiều cao), trình độ dân trí hay mức thu nhập chưa cao. Nhưng rõ ràng, vị thế của đất nước Việt Nam không hề nhỏ bé trên thế giới. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta đã đánh bại kẻ thù xâm lược, giành lại độc lập cho quốc gia, dân tộc. Từ các vương triều phong kiến ở phương Bắc, đến thực dân Pháp hay đế quốc Mĩ. Không chỉ vậy, Việt Nam cũng là một nước có nền văn hóa lâu đời, nhiều truyền thống đáng tự hào. Hiện nay, Việt Nam cũng đã chứng minh được vị thế trên trường quốc tế trong nhiều lĩnh vực, đóng góp vào công cuộc chung của thế giới. Một ví dụ như khi nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới đang rơi vào khủng hoảng sau đại dịch Covid-19 thì Việt Nam vẫn tự hào là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng dương. Như vậy, chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về một đất nước Việt Nam luôn bản lĩnh, kiên cường để vượt qua mọi thách thức, vươn lên phát triển mạnh mẽ.