Tác giả tác phẩm Cô Tô (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 6 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Cô Tô Ngữ văn lớp 6 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 6. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Cô Tô - Ngữ văn 6
Bài giảng Ngữ văn 6 Cô Tô - Kết nối tri thức
I. Tác giả
- Năm sinh – năm mất: 1910 – 1987;
- Quê quán: Hà Nội;
- Ông là nhà văn có phong cách độc đáo, lối viết tài hoa, cách dùng từ ngữ đặc sắc. Thể loại sở trường của ông là kí, truyện ngắn. Kí của Nguyễn Tuân cho thấy tác giả có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực đời sống. Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân: Vang bóng một thời (tập truyện ngắn), Sông Đà (tùy bút),…
II. Đọc tác phẩm Cô Tô
Cô Tô
NGUYỄN TUÂN
Ngày thứ năm trên đảo Cô Tô là một ngày trong trẻo, sáng sủa. Từ khi có vịnh Bắc Bộ và từ khi quần đảo Cô Tô mang lấy dấu hiệu của sự sống con người thì, sau mỗi lần dông bão, bao giờ bầu trời Cô Tô cũng trong sáng như vậy. Cây trên núi đảo lại thêm xanh mượt, nước biển lại lam biếc đậm đà hơn hết cả mọi khi, và cát lại vàng giòn hơn nữa. Và nếu cá có vắng tăm biệt tích trong ngày động bão, thì nay lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi. Chúng tôi leo dốc lên đồn Cô Tô hỏi thăm sức khoẻ anh em bộ binh và hải quân cùng đóng sát nhau trong cái đồn khố xanh cũ ấy. Trèo lên nóc đồn, nhìn ra bao la Thái Bình Dương bốn phương tám hướng, quay gót 180 độ mà ngắm cả toàn cảnh đảo Cô Tô. Nhìn rõ cả Tô Bắc, Tô Trung, Tô Nam, mà càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây.
…Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu của tôi trên đảo Thanh Luân một cách thật quá là đầy đủ. Tôi dậy từ canh tư. Còn tối đất, cố đi mãi trên đá đầu sư, ra thấu đầu mũi đảo. Và ngồi đó rình mặt trời lên. Điều tôi dự đoán, thật là không sai. Sau trận bão, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi. Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng. Y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông. Vài chiếc nhạn mùa thu chao đi chao lại trên mâm bể sáng dần lên cái chất bạc nén. Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh…
Khi mặt trời đã lên một vài con sào, tức là lúc nó trở về sự bình dị hằng ngày, thì tôi đang múc gầu nước giếng dội lên đầu lên cổ lên vai lên lưng, nghĩa là tôi cũng đang đi tắm như mọi người lao động bình thường đang tắm quanh giếng. Cái giếng nước ngọt ở ria một hòn đảo giữa bể, cái sinh hoạt của nó vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền.
Cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc. Múc nước giếng vào thùng gỗ, vào những cong những ang gốm màu da lươn. Lòng giếng vẫn còn rớt lại vài cái lá cam lá quýt của trận bão vừa rồi quăng vào. Chỗ bãi đá nuôi sáu mươi vạn con hải sâm ngoài kia, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp đổ nước ngọt vào. Sau trận bão, hôm nay hợp tác xã Bắc Loan Đầu cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Anh hùng Châu Hoà Mãn cùng bốn bạn xã viên đi chung một thuyền. Anh quẩy nước bên bờ giếng, tôi né ra một bên. Anh quẩy mười lăm gánh cho thuyền anh: “Đi ra khơi, xa lắm mà, có khi mười ngày mới về. Nước ngọt cho vào sạp, chỉ để uống. Vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt. Vo gạo bằng nước bể thôi”.Từ đoàn thuyền sắp ra khơi đến cái giếng ngọt, thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về. Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành.
(Nguyễn Tuân, Kí Nguyễn Tuân, NXB Văn Học, Hà Nội, 1966, tr.116-132)
III. Tác phẩm Cô Tô
1. Thể loại
Kí
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Cô Tô được viết nhân một chuyến ra thăm đảo của nhà văn. Bài kí được in trong tập Kí, xuất bản lần đầu năm 1976.
3. Phương thức biểu đạt
Miêu tả, tự sự,…
4. Người kể chuyện
Ngôi thứ nhất, xưng “tôi”
5. Tóm tắt tác phẩm Cô Tô
Sau trận bão, quần đảo Cô Tô trở lên trong trẻo, sáng sủa, đẹp đẽ hơn, cây cối xanh thêm, nước biển đậm đà hơn, cát vàng giòn hơn, cá nhiều hơn, chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây, hết bụi. Khung cảnh mặt trời mọc trên biển thật tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Bên giếng nước ngọt, người dân tấp nập múc nước, gánh nước, chuẩn bị cho chuyến ra khơi.
6. Bố cục tác phẩm Cô Tô
Gồm 4 phần:
- Đoạn 1: Từ đầu… quỷ khốc thần linh: Cơn bão biển Cô Tô;
- Đoạn 2: Ngày thứ Năm trên đảo Cô Tô… lớn lên theo mùa sóng ở đây: Cảnh Cô Tô một ngày sau bão (điểm nhìn: trên nóc đồn biên phòng Cô Tô);
- Đoạn 3: Mặt trời… nhịp cánh: Cảnh mặt trời lên trên biển Cô Tô (điểm nhìn: nơi đầu mũi đảo);
- Đoạn 4: Còn lại: Buổi sớm trên đảo Thanh Luân (điểm nhìn: cái giếng nước ngọt ở rìa đảo).
7. Giá trị nội dung tác phẩm Cô Tô
- Cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô hiện lên thật trong sáng và tươi đẹp. Bài văn cho ta hiểu biết và yêu mến một vùng đất của Tổ quốc – quần đảo Cô Tô.
8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Cô Tô
- Ngôn ngữ điêu luyện, độc đáo
- Miêu tả tinh tế, chính xác, giàu hình ảnh và cảm xúc
- Sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hóa, ẩn dụ,…
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Cô Tô
1. Sự dữ dội của trận bão
- Các danh từ: Cánh cung, hỏa lực, trống trận;
- Cụm tính từ + động từ mạnh: buốt, rát, liên thanh quạt lia lịa, trời đất trắng mù mù, thúc, âm âm rền rền, vỡ tung, rít lên, rú lên, ghê rợn;
- Lượng từ: ba ngàn thước, trăm thước không gian rộng, bao la cho thấy sức gió mạnh, đẩy con người ra đi rất xa;
- Các từ, cụm từ Hán Việt: hỏa lực, thủy tộc, quỷ khốc thần linh;
- Biện pháp so sánh:
Mỗi viên cát như viên đạn mũi kim bắn vào má;
Gió như người bắn: chốc chốc gió ngừng trong tích tắc như để thay băng đạn;
Sóng như vua thủy;
Gió rú rít như quỷ khốc thần linh so sánh làm nổi bật sự kì quái, rùng rợn của những trận gió.
- Thủ pháp tăng tiến:
Gác đảo nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết. Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung. Tiếng gió càng ghê rợn […] như cái kiểu người ta vẫn thường gọi là quỷ khốc thần linh:
+ Từ vây dồn bung hết, ép vỡ tung Thủ pháp tăng tiến miêu tả sức mạnh và hành động của cơn gió, làm cho hình ảnh sống động như thật;
+ “càng”: cấp độ được tăng thêm Từ miêu tả những cửa kính bị vỡ miêu tả tiếng gió “ghê rợn” so sánh với hình ảnh kì quái, sử dụng từ Hán Việt: “quỷ khốc thần linh”.
Sử dụng các từ ngữ gây ấn tượng mạnh, tập hợp các từ ngữ trong trường nghĩa chiến trận diễn tả sự đe dọa và sức mạnh hủy diệt của cơn bão
Cái nhìn độc đáo của tác giả về trận bão biển. Miêu tả cơn bão như trận chiến dữ dội, để cho thấy sự đe dọa và sức mạnh hủy diệt của cơn bão.
Phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân.
2. Cảnh Cô Tô sau cơn bão yên ả, tinh khôi
- Cụm tính từ, động từ:
Bầu trời – trong trẻo, sáng sủa, trong sáng >< cảnh bão trời – trắng mù mù
Núi đảo, nước biển – Xanh mượt, lam biếc đặm đà
Cát – vàng giòn
Cá – trong bão: biệt tăm biệt tích, bão tan: lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi tài nguyên phong phú
Khác với cách miêu tả trận bão biển, biển sau bão không còn được miêu tả bằng những từ ngữ tạo cảm giác mạnh, kịch tính mà được miêu tả bằng các hình ảnh giàu màu sắc, gợi không khí yên ả và vẻ đẹp tinh khôi của Cô Tô.
- Cảm xúc của tác giả: cách dùng từ gần gũi với dân chài: động bão, mẻ cá giã đôi, mùa sóng;
Kể bằng hình ảnh trong kí có tác động lớn đến cảm nhận của người đọc.
3. Cảnh mặt trời mọc trên biển, đảo Cô Tô
- Hình ảnh so sánh độc đáo, mới lạ:
+ Khi mặt trời chưa nhú lên: chân trời trong, sạch như tấm kính độ trong, sạch và sáng
+ Khi mặt trời bắt đầu nhú lên:
Mặt trời như lòng đỏ trứng thiên nhiên đầy đặn, hồng hào thăm thẳm kết hợp từ mới lạ: hồng hào: chỉ màu sắc, thăm thẳm: chỉ độ sâu;
Bầu trời: mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển hửng hồng; mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh hình ảnh nên thơ, tưởng tượng phong phú, lối viết độc lạ, tài hoa;
Hình ảnh so sánh độc đáo mới lạ Tài quan sát, tưởng tượng
Bức tranh cực kỳ rực rỡ, lộng lẫy về cảnh mặt trời mọc trên biển;
- Dậy từ canh tư, ra tận mũi đảo ngồi rình mặt trời lên Cách đón nhận công phu và trang trọng
Thể hiện tình yêu của tác giả đối với thiên nhiên.
4. Cảnh sinh hoạt của con người trên đảo Cô Tô
- Cái giếng nước ngọt giữa đảo;
- Rất đông người: tắm, múc, gánh nước, bao nhiêu là thùng gỗ, cong, ang, gốm, các thuyền chờ mở nắp sạp chờ đổ nước ngọt để ra khơi đánh cá;
- Nước ngọt chỉ để uống, vo gạo thổi cơm cũng không được lấy nước ngọt Nước ngọt rất quý
Nguồn nước ngọt sinh hoạt chính của người dân Cô Tô;
Chi tiết không thể thiếu khi miêu tả Cô Tô
- Hình ảnh chị Châu Hòa Mãn địu con: hình ảnh so sánh nhiều tầng bậc với các cặp so sánh:
Biển cả – người mẹ hiền
Biển cho tôm cá – mẹ mớm thức ăn cho con
Người dân trên đảo – lũ con lành của biển
Kết thúc bằng tình yêu của tác giả với biển đảo quê hương và sự tôn vinh những người lao động trên đảo
V. Các bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Cô Tô
Bài tham khảo 1
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn trong nền văn học Việt Nam. Đến với đoạn trích Cô Tô, ông đã khắc họa lên khung cảnh thiên nhiên và sinh hoạt của con người trên vùng đảo Cô Tô thật trong sáng và tươi đẹp.
Nguyễn Tuân đã miêu tả đôi nét cảnh Cô Tô trong cơn bão. Nhà văn cảm nhận qua nhiều giác quan: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Một cơn bão vô cùng dữ dội, khủng khiếp.
Sau đó, nhà văn miêu tả lại vẻ đẹp trong sáng, tươi trẻ của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua. Ông đã dùng một loạt các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng có sức gợi mạnh mẽ để tái hiện dáng vẻ tinh khôi, trong sáng của đảo Cô Tô sau khi bão tan như: “trong trẻo, sáng sủa, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn”. Cùng với đó, Nguyễn Tuân đã lựa chọn ra những cảnh sắc tiêu biểu để gợi ra khung cảnh của Cô Tô sau bão như: “bầu trời, nước biển, cây trên núi, bãi cát”.
Lựa chọn điểm nhìn từ trên cao - ở nơi đóng quân của bộ đội, Nguyễn Tuân phóng tầm mắt ra xa mở ra khung cảnh bao la và vẻ đẹp tươi sáng của đảo bằng hai từ “trong trẻo và sáng sủa”. Thiên nhiên nơi đây ngập tràn sức sống với hình ảnh “cây trên núi lại thêm xanh mượt” gợi ra dáng vẻ sạch sẽ, mướt mát, tinh khiết của cây cối, cùng với đó là màu “lam biếc” đậm đà của nước biển, và sự “vàng giòn” của cát biển đem đến cho chúng ta một bức tranh khoáng đạt, trong trẻo, với những gam màu nhẹ nhàng, thanh sạch. Bên cạnh đó sự chuyển đổi cảm giác từ thị giác với những gam màu xanh, vàng sang vị giác với các tính từ “đậm đà”, “giòn” đã bộc lộ những cảm nhận tinh tế, sâu sắc của Nguyễn Tuân về vẻ đẹp độc đáo, thanh khiết vô cùng nơi đảo xa.
Đặc biệt nhất là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc trên biển, một cảnh tượng tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp. Hình ảnh mặt trời mọc được đặt trong một khung cảnh rộng lớn, khoáng đạt và trong trẻo với hình ảnh so sánh hết sức độc đáo “Sau trận bão chân trời, ngấn bể sạch như một tấm kính lau mây hết bụi”. Cùng với đó là màu nước biển trong tác phẩm cũng “lam biếc” đậm đà, tạo nên bức phông nền đồng nhất “nước trời một sắc, phong cảnh ba thu” vô cùng thích hợp để làm nổi bật vẻ tuyệt diệu của cảnh mặt trời mọc. Câu văn miêu tả của Nguyễn Tuân thật tinh tế: “Mặt trời tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc, đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Hình ảnh so sánh độc đáo đã cho thấy tài năng của Nguyễn Tuân.
Cuối cùng là khung cảnh sinh hoạt của người dân trên đảo. Trong cảm nhận của Nguyễn Tuân, cảnh sinh hoạt ở giếng nước ngọt, vui vẻ tấp nập như một cái bến. Tuy nhiên lại “đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền” nghĩa rằng sự sinh hoạt ở đây luôn mang một sắc thái phóng khoáng dễ chịu, bớt đi cái ồn ào, kẻ mua người bán tranh giành, cãi vã khiến người ta khó chịu. Với chỉ một câu như vậy tác giả đã dễ dàng cho người đọc những hình dung sơ lược về tính cách của người dân đảo Cô Tô, náo nhiệt, sôi động nhưng hiền hòa, phóng khoáng.
Như vậy, đoạn trích Cô Tô đã thể hiện được tài năng ngôn từ của nhà văn Nguyễn Tuân. Đây quả là một tác phẩm độc đáo.
Bài tham khảo 2
Bài văn “Cô Tô” là phần cuối của bài kí Cô Tô của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm ghi lại những ấn tượng về thiên nhiên, về con người lao động của vùng đảo Cô Tô mà nhà văn thu nhận được trong chuyến đi ra thăm đảo.
Mở đầu đoạn trích, nhà văn đã khắc họa khung cảnh đảo Cô Tô trong cơn bão. Tác giả quan sát và cảm nhận trận bão bằng những giác quan. Đầu tiên là xúc giác: “Mỗi viên cát bắn vào má vào gáy lúc này buốt như một viên đạn mũi kim”; Rồi đến thính giác “Gió liên thanh quật lia lịa…, Sóng thúc lẫn nhau mà vào bờ âm âm rền rền…, Nó rít lên rú lên…”; Và cả thị giác: “Sóng cát đánh ra khơi, bể đánh bọt sóng vào, trời đất trắng mù mù toàn bãi như là kẻ thù bắt đầu thả hơi ngạt; Gác đào ủy nhiều khuôn cửa kính bị gió vây và dồn, bung hết; Kính bị thứ gió cấp 11 ép, vỡ tung”. Có thể thấy, cơn bão giống như một kẻ thù đang dàn trận để đánh bại con người.
Nhưng sau cơn bão, đảo Cô Tô hoàn toàn thay đổi. Tác giả tóm gọn khung cảnh này chỉ bằng hai từ “trong trẻo, sáng sủa”. Nhà văn đã lựa chọn điểm nhìn xuất phát từ trên cao xuống dưới thấp. Nhà văn đã nhìn ra phía mặt biển rộng lớn để chiêm ngưỡng thiên nhiên của Cô Tô. Trên cái nền là bầu trời xanh tươi sáng và mặt nước màu lam biếc, nổi bật lên màu xanh mượt của cây, màu vàng giòn của cát và màu trắng của sóng xô dào dạt vào đảo. Màu xanh bao trùm lên Cô Tô, nhưng với những sắc thái khác nhau. Toàn bộ cảnh đẹp được thu vào tầm mắt khiến nhà ăn “càng thấy yêu mến hòn đảo như bất cứ người chài nào đã từng đẻ ra và lớn lên theo mùa sóng ở đây”. Bức tranh thiên nhiên hiện lên với nét chân thực nhất.
Đặc sắc hơn cả là đoạn văn miêu tả cảnh mặt trời mọc: “Mặt trời nhú lên dần dần, rồi lên cho kì hết. Tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn. Quả trứng hồng hào thăm thẳm và đường bệ đặt lên một mâm bạc đường kính mâm rộng bằng cả một cái chân trời màu ngọc trai nước biển ửng hồng”. Cách so sánh độc đáo, cho thấy tài năng sử dụng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Tuân. Đồng thời, vẻ đẹp của Cô Tô hiện lên thật tráng lệ, hùng vĩ và tuyệt đẹp.
Nhưng không dừng lại ở đó, để cho bài văn thêm hấp dẫn hơn, nhà văn đã miêu tả khung cảnh sinh hoạt của con người. Hoạt động trên đảo vừa khẩn trương, tấp nập lại vừa vui vẻ, thanh bình. Quanh cái giếng nước ngọt đảo Thanh Luân sớm nay có không biết bao nhiêu là người đến gánh và múc... Người dân chài gánh nước ngọt từ giếng xuống thuyền, chuẩn bị cho mười tám thuyền lớn nhỏ cùng ra khơi đánh cá hồng. Đặc biệt là hình ảnh liên tưởng “Chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền móm cá cho lũ con lành”. Khung cảnh sinh hoạt của Cô Tô khiến cho thiên nhiên Cô Tô trở nên có sức sống hơn.
Như vậy, đoạn trích Cô Tô của Nguyễn Tuân đã khắc họa vẻ đẹp của huyện đảo Cô Tô thật sinh động, chân thực.