Tác giả tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 6 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh Ngữ văn lớp 6 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 6. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Sơn Tinh, Thuỷ Tinh - Ngữ văn 6
Bài giảng Ngữ văn 6 Sơn Tinh, Thủy Tinh - Kết nối tri thức
I. Đọc tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Hùng Vương thứ mười tám có một người con gái là Mị Nương, người đẹp như hoa, tính nết hiền dịu. Vua cha yêu thương Mị Nương rất mực, muốn kén cho con một người chồng thật xứng đáng.
Một hôm có hai chàng trai đến cầu hôn(1). Một người ở vùng núi Tản Viên(2) có tài lạ: vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi. Người ta gọi chàng là Sơn Tinh. Một người ở miền biển, tài năng cũng không kém: gọi gió, gió đến; hô mưa, mưa về. Người ta gọi chàng là Thuỷ Tinh.
Một người là chúa miền non cao, một người là chúa vùng nước thẳm, cả hai đều xứng đáng làm rể Vua Hùng. Vua Hùng băn khoăn, không biết nhận lời ai, từ chối ai, bèn cho vời các Lạc hầu(3) vào bàn bạc. Xong, vua phán(4):
– Hai ngài đều vừa ý ta, nhưng ta chỉ có một người con gái, biết gả cho ngài nào? Thôi thì ngày mai, ai đem sính lễ(5) đến trước, ta sẽ cho cưới con ta.
Hai chàng tâu hỏi đồ sính lễ cần sắm những gì, vua bảo: “Một trăm ván(6) cơm nếp, một trăm nệp(7) bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao(8) mỗi thứ một đôi”.
Hôm sau, mới tờ mờ sáng, Sơn Tinh đã đem đầy đủ lễ vật đến rước Mị Nương về núi.
Thuỷ Tinh đến sau, không lấy được vợ, đùng đùng nổi giận, đem quân đuổi theo, đòi cướp Mị Nương. Thần hô mưa, gọi gió, làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh. Nước ngập ruộng đồng, nước tràn nhà cửa, nước dâng lên lưng đồi, sườn núi, thành Phong Châu(9) như nổi lềnh bềnh trên một biển nước.
Sơn Tinh không hề nao núng(10). Thần dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành luỹ đất, ngăn chặn dòng nước lũ. Nước sông dâng lên bao nhiêu, đồi núi cao lên bấy nhiêu. Hai bên đánh nhau ròng rã mấy tháng trời, cuối cùng Sơn Tinh vẫn vững vàng mà sức Thuỷ Tinh đã kiệt. Thần Nước đành rút quân.
Từ đó, oán nặng, thù sâu, hằng năm Thuỷ Tinh làm mưa gió, bão lụt dâng nước đánh Sơn Tinh. Nhưng năm nào cũng vậy, vị Thần Nước đánh mỏi mệt, chán chê vẫn không thắng nổi Thần Núi để cướp Mị Nương, đành rút quân về.
(Theo Huỳnh Lý, Vãn 6, tập một, NXB Giáo dục, 1994, tr. 7-9)
II. Tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
1. Thể loại
Truyện truyền thuyết
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Theo Huỳnh Lý, Văn 6, tập 1, NXB Giáo dục, 1994
3. Phương thức biểu đạt
Tự sự
4. Người kể chuyện
Ngôi thứ ba
5. Tóm tắt tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Hùng Vương thứ mười tám muốn kén chồng cho con gái Mị Nương. Sơn Tinh (Thần Núi) và Thủy Tinh (Thần Nước) cùng đến cầu hôn. Nhà vua băn khoăn đưa ra yêu cầu sính lễ, ai đem sính lễ đến trước sẽ được lấy Mị Nương. Hôm sau Sơn Tinh đến trước, rước Mị Nương về. Thủy Tinh đến sau nổi giận, dâng nước đánh Sơn Tinh và thua trận. Từ đó hằng năm Thủy Tinh làm mưa bão trả thù Sơn Tinh.
6. Bố cục tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Gồm 3 phần:
+ Phần 1 (từ đầu đến “mỗi thứ một đôi”): Vua Hùng đưa ra điều kiện kén rể
+ Phần 2 (tiếp đó đến “Thần Nước đành rút quân”): Cuộc giao tranh giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh
+ Phần 3 (còn lại): Cuộc trả thù hằng năm của Thủy Tinh
7. Giá trị nội dung tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
- Lí giải hiện tượng lũ lụt hàng năm
- Ước mong muốn chế ngự thiên tai
- Ca ngợi công lao dựng nước và giữ nước của vua Hùng
8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
- Miêu tả nhân vật
- Sử dụng các chi tiết kì ảo, các mô típ quen thuộc
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
1. Vua Hùng kén rể
– Mô tip kén rể rất quen thuộc trong văn học dân gian thể hiện quan niệm công bằng, trọng người tài
– Hai chàng trai đến cầu hôn:
+ Một người ở vùng núi Tản Viên, có tài lạ (chỉ cần vẫy tay là có thể tạo nên núi đồi) Sơn Tinh (thần Núi)
+ Một người miền biển, có tài hô mưa, gọi gió Thủy Tinh (thần Nước)
Hai nhân vật có tài năng kì lạ, phi thường được giới thiệu một cách đầy độc đáo, ấn tượng xứng đáng báo hiệu một cuộc tranh tài, đọ sức đầy cam go
– Trước hai chàng rể xứng đáng, vua Hùng không biết lựa chọn ai, từ chối ai, nên đã đưa ra lễ vật: một trăm ván cơm nếp, một trăm tệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao
Sính lễ có cơm nếp, bánh chưng: sự tôn trọng nghề nông, thành quả lao động (gợi nhớ đến truyền thuyết Bánh chưng bánh giầy)
Sính lễ toàn là những con vật kì lạ nhưng ở trên cạn, ở trên núi dễ dàng hơn cho Sơn Tinh.
– Rõ ràng, vua Hùng có sự thiên vị Sơn Tinh. Điều đó thể hiện cho quan niệm của cha ông ta: gần gũi, yêu mến đất, đặt niềm tin vào đất; yêu mến rừng; sợ hãi trước thế lực của nước. Đây không phải là quyết định riêng của Hùng Vương thứ 18 mà là ý kiến của cả triều đình, cả dân tộc.
2. Chiến thắng của Sơn Tinh
- Vì được sự ưu ái của Vua Hùng, Sơn Tinh đã mang được lễ vật về trước và rước Mị Nương về núi.
- Nhưng chiến thắng của Sơn Tinh cũng hoàn toàn xứng đáng vì khi bị Thủy Tinh đem quân đánh lại, Sơn Tinh vẫn chiến thắng.
- Cuộc chiến của hai vị thần được miêu tả vô cùng cam go, khốc liệt, hùng tráng
- Phần thắng của Sơn Tinh không phải vì Sơn Tinh mạnh hơn bởi lẽ hai vị thần đều ngang sức, ngang tài. Sơn Tinh chiến thắng vì:
+ Chàng không hề nao núng kiên trì
+ Chàng có được sự ủng hộ của nhân dân đoàn kết
Cuộc chiến giữa Sơn Tinh, Thủy Tinh chính là sự mô phỏng cuộc chiến chống thiên tai, lũ lụt của cư dân xưa: công cuộc đắp đê, chống lũ. Bằng sự kiên trì, đoàn kết, nhân dân ta đã chiến thắng được sức mạnh của tự nhiên Ước mong chế ngự được thiên tai của cha ông ta.
3. Lí giải hiện tượng lũ lụt hàng năm
- Hiện tượng lũ lụt hàng năm được lí giải một cách đầy thơ mộng bằng một câu chuyện tình: Thủy Tinh vì không lấy được Mị Nương, oán nặng, thù sâu, năm nào cũng dâng lũ để cướp Mị Nương về Lũ lụt được xây dựng như một chàng trai si tình.
Trí tưởng tượng phong phú, thơ mộng của ông cha ta đã chắp nên một thiên tình sử đẹp đẽ.
- Nhưng năm nào Thủy Tinh cũng thua ca ngợi công cuộc chống lũ lụt của vua Hùng, của nhân dân ta: luôn luôn chế ngự được lũ lụt.
IV. Các bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Bài tham khảo 1
Truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh lầ một trong những truyền thuyết lâu đời nhất trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam và đã gắn liền với tuổi thơ của biết bao người. Câu chuyện thể hiện niềm khao khát chế ngự thiên nhiên của nhân dân ta, trước nỗi lo thiên tai bão lụt vẫn thường hoành hành hằng năm qua.
Đầu tiên, truyền thuyết này như muốn nói về hiện tượng thiên tai, bão lũ hàng năm cũng như lòng quyết tâm chống lại thiên tai của nhân dân ta. Sơn Tinh Thuỷ Tinh kể về đời vua Hùng thứ 18. Kể rằng vua Hùng có một người con gái vô cùng xinh đẹp, lại nết na, hiền dịu có tên là Mị Nương. . Nay nàng đến tuổi thành thân, nên vua cha muốn kén cho nàng một người chồng xứng đáng. Trong số đó có hai chàng trai kiệt xuất là Sơn Tinh và Thủy Tinh. Một người là ''chúa vùng non cao''. Một người là ''vua vùng nước thẳm''. Vì đưa được sính lễ tới trước là ''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao'' nên Sơn tinh đã cưới được Mị Nương về làm vợ. Tức tối, ghen ghét vì thua cuộc , Thủy Tinh đã hô mưa gọi gió, tạo ra lũ lụt để đánh bại Sơn Tinh.Thủy Tinh dâng nước thì Sơn Tinh dời núi non. Thủy Tinh đại diện cho thiên nhiên giông bão, lũ lụt; còn Sơn Tinh là nhân vật biểu trưng cho nhân dân ta với tinh thần kiên cường bất khuất, sự mưu trí và anh dũng không chịu đầu hàng trước thiên tai, số phận.
Tiếp đó, tác giả dân gian đã lựa chọn được hình ảnh, nghệ thuật đặc sắc để diễn tả được hình ảnh thiên tai bão lũ và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước thiên tai. Đây là câu chuyện được viết theo kiểu thần thoại Việt Nam nên có thể thấy được truyện chưa nhiều yếu tố kỳ ảo để nói về những hiện tượng thiên nhiên. Từ tình huống vua Hùng kén rể , ta có thể tháy đươc là núi non, nhân dân luôn được đặt lên hàng đầu . Vua Hùng đặt ra sính lễ là''voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao''. Những lễ vật này có thể thấy được là dễ dàng tìm ở vùng núi rừng chứ không phải biển cả. Sơn tinh đã có một lợi thế rõ ràng trước Thủy TInh. Sau đó, một loạt những chi tiết kỳ ảo như ''Thủy tinh hô mưa, gọi gió.'', ''Nước dâng lên cao bao nhiêu, Sơn Tinh lại làm cho đồi, núi mọc cao lên bấy nhiêu.'' như vẽ nên bức tranh thiên tai ngày xưa. Lũ lụt càng lên cao, dân ta càng gắng sức chiến đấu, chống lại thiên tai. Cùng với đó là hình ảnh người dân Văn Lang cùng Sơn Tinh chống lại cuộc tấn công của Thủy tinh càng tô đậm vẻ kiên cường của nhân dân Việt Nam trước bão lũ.
Câu chuyện Sơn Tinh , Thủy Tinh được khắc họa qua các chi tiết kỳ ảo, sinh động về hai vị thần rất thành công trong việc đưa người đọc đến với hình ảnh của người dân thời xưa đối mặt với sự tức giận từ thiên nhiên như thế nào. Truyện gắn mãi với bao thế hệ, luôn nhắc nhở chúng ta về tình đoàn kết của nhân dân trước mọi khó khăn, thử thách
Bài tham khảo 2
Nếu các truyền thuyết “Con Rồng, cháu Tiên”, “Bánh chưng bánh giầy” giải thích về nguồn gốc của con người và nguồn gốc của phong tục làm bánh chưng, bánh giầy vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán thì truyền thuyết “Sơn Tinh, Thủy Tinh” lại giải thích các hiện tượng trong thiên nhiên như bão, lũ lụt. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của kho tàng văn học dân gian Việt Nam. Nổi bật trong truyền thuyết này là nhân vật Sơn Tinh – dân gian gọi chàng là thần Núi.
Sơn Tinh là nhân vật chính của tác phẩm. Chàng được giới thiệu là một người ở núi Tản Viên, có nhiều tài lạ: “vẫy tay về phía đông, phía đông nổi cồn bãi; vẫy tay về phía tây, phía tây mọc lên từng dãy núi đồi”. Đó là sức mạnh siêu nhiên của các vị thần thánh. Con người bình thường không thể có được sức mạnh ấy. Vị thần Sơn Tinh dường như đã làm chủ được thiên nhiên, tạo vật, chỉ cần ra hiệu, dùng sức mạnh của mình cũng có thể làm cho những cồn cát nổi lên và các dãy núi đồi cũng được mọc lên.
Sức mạnh, tài năng, trí tuệ của Sơn Tinh được thể hiện qua cuộc kén rể của vua Hùng. Hùng Vương thứ mười tám muốn “kén cho con một người chồng thật xứng đáng” nên đã đưa ra sính lễ cầu hôn gồm: “một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng và voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, mỗi thứ một đôi”. Đến sáng sớm hôm sau, giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh ai mang đến trước thì người đó sẽ được lấy Mị Nương. Là một người sống trên núi nên Sơn Tinh biết rất rõ những sính lễ đó. Chàng đã chuẩn bị đầy đủ và rước được Mị Nương về làm vợ. Chàng đã lấy được con gái vua Hùng nhờ vào sự tài trí và nhanh nhẹn của mình.
Không chỉ vậy, sức mạnh của Sơn Tinh còn được thể hiện trong cuộc chiến đấu với Thủy Tinh. Thủy Tinh là thần Nước, do không rước được Mị Nương nên hắn nổi giận, “đem quân đuổi theo đòi cướp Mị Nương”. Thủy Tinh “hô mưa, gọi gió làm thành dông bão rung chuyển cả đất trời, dâng nước sông lên cuồn cuộn đánh Sơn Tinh”. Nhưng Sơn Tinh không hề bị “nao núng”, lung lay ý chí quyết tâm mà thần đã “dùng phép lạ bốc từng quả đồi, dời từng dãy núi, dựng thành lũy đất, ngăn chặn dòng nước lũ”.
Hai bên chiến đấu ngang tài ngang sức kéo dài “ròng rã mấy tháng trời” và chiến thắng cuối cùng đã thuộc về thần Núi. Thủy Tinh do kiệt sức nên đành phải rút quân. Sơn Tinh không trực tiếp làm hại đến kẻ địch mà chỉ dùng phép dời núi, dựng thành để ngăn chặn lại sự tấn công của Thủy Tinh. Những hành động của Sơn Tinh cũng không ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống con người. Đây quả là một vị thần nhân hậu, biết nghĩ cho cuộc sống của nhân dân lao động.
Có thể nói, Sơn Tinh luôn đứng về phía nhân dân để giúp đỡ và bảo vệ họ tránh khỏi thiên tai, lụt lội. Đồng thời, tác giả dân gian cũng gửi gắm bài học về tình đoàn kết, sự yêu thương, gắn bó với nhau của đồng loại qua hình tượng nhân vật này. Thần Núi không chỉ mang trong mình sức mạnh siêu nhiên mà đó còn là một sức mạnh bền bỉ. Khi Thủy Tinh đã sức cùng lực kiệt thì Sơn Tinh vẫn “vững vàng” chiến đấu đến cùng. Sức mạnh ấy còn tượng trưng cho sức mạnh của con người, của dân tộc Việt Nam chúng ta. Con người luôn mong ước có được cuộc sống ấm no, chế ngự được thiên tai để tập trung vào lao động sản xuất, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Các tác giả dân gian đã gửi gắm niềm mong ước chiến thắng tự nhiên của mình qua hình tượng Sơn Tinh. Đây là một sự sáng tạo của nhân dân ta, là hình ảnh của người anh hùng lao động mang toàn bộ sức lực bản thân để cải tạo, chế ngự thiên nhiên. Dù thiên nhiên có khắc nghiệt đến đâu thì con người vẫn sẽ chống lại sự tàn phá của nó và tìm cách khắc phục, bảo vệ sự sống. Hằng năm, nhân dân ta vẫn đắp đê ngăn lũ, đây là hành động thể hiện ý thức chế ngự thiên nhiên của con người.
Nhân vật được khắc họa bằng những chi tiết thần thánh, yếu tố kì ảo nhằm tăng sức hấp dẫn cho câu chuyện. Vị thần này có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Vì vậy, Sơn Tinh được thờ cúng ở nhiều địa điểm khác nhau trên đất nước. Đây là một trong “tứ bất tử” của nước ta và được nhân dân cung kính gọi với một tên khác là Đức thánh Tản.