Tác giả tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 6 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn Ngữ văn lớp 6 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 6. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Lắc-ki thực sự may mắn - Ngữ văn 6
Bài giảng Ngữ văn 6 Lắc- ki thực sự may mắn - Kết nối tri thức
I. Tác giả
- Lu-I Xe-pun-ve-da (1949-2020)
- Là nhà văn, nhà báo, đạo diễn, nhà cách mạng nổi tiếng của Chi-lê (Chile)
- Là nhà văn có phong cách trong sáng, hài hước đầy tinh tế, trái tim khao khát tự do cũng như tấm lòng quý giá của một con người đối với tự nhiên và môi trường.
- Nhiều sáng tác nổi tiếng như: Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp, …
II. Đọc tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
Lắc-ki thực sự may mắn
(LU-I XE-PUN-VE-DA)
Lucky lớn nhanh như thổi, được bao bọc trong sự yêu thương của bầy mèo. Sau một tháng sống trong tiệm tạp hóa của Harry, nó đã ra dáng một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả với lớp lông vũ mềm màu bạc.
Khi có khách tới tham quan tiệm tạp hóa, Lucky theo hướng dẫn của Đại Tá, co mình bất động giữa những con chim nhồi bông, giả vờ là một trong số chúng. Nhưng buổi chiều muộn, khi tiệm tạm hóa đóng cửa và lão thủy thủ già đã đi nghỉ ngơi, nó lại lạch bạch với dáng vẻ của một con chim biển đi xuyên qua các căn phòng, trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thế chứa trong đó. Trong khi đó, Einstein điên cuồng giở hết cuốn sách này sang cuốn sách khác, tìm ra phương pháp giúp Zorba dạy con chim mới trổ cánh tập bay.
“Việc tập bay bao gồm đẩy không khí ra phía trước và phía sau. À há! Giờ thì chúng ta đã tìm ra yếu tố quan trọng,” Einstein ngâm nga, vẫn chúi mũi vào một cuốn sách.
“Tại sao con lại phải bay?” Lucky hỏi, hai cánh khép chặt vào thân.
“Bởi vì con là hải âu, mà hải âu thì phải bay,” Einstein đáp. “Với bác thì thật là khủng khiếp, thật là khủng khiếp nếu con không nhận ra điều đó.”
“Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu,” Lucky cãi lại. “ Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.”
Một buổi chiều, nó lạch bạch đi tới cửa ra vào tiệm tạp hóa, ở đó có vụ đụng độ không mấy dễ chịu với con đười ươi.
“Tao không muốn phân chim quanh đây đâu, con nhỏ lòi dom kia” Matthew rít lên.
“Tại sao ngài lại gọi cháu thế, thưa ngài Khỉ?” Lucky rụt rè hỏi.
“Chim chóc con nào chẳng làm thế. Ị bậy khắp nơi. Mà mày thì đích thị là một con chim,” con đười ươi nhắc lại với vẻ hách dịch.
“Ngài nhầm rồi. Cháu là một con mèo và rất biết giữ vệ sinh,” Lucky phản ứng, tìm kiếm sự đồng cảm của con khỉ không đuôi. “Cháu dùng chung cái thùng vệ sinh với bác Einstein.”
“Thật là nực cười! Bọn khố rách áo ôm làm trò gì mà thuyết phục được mày tin rằng mày là một trong số chúng thế? Mày ngó lại mày tí coi: mày có hai chân, và mèo thì có bốn chân. Mày có lông vũ, còn chúng nó có lông mao. Còn đuôi mày? Ơ? Đuôi mày đâu ấy nhỉ? Mày cũng dở hơi chả kém gì con mèo kia, bỏ cả đời cắm đầu vào mấy cuốn sách rồi kêu lên, ‘Khủng khiếp! Khủng khiếp!’ Đồ chim đần độn. Và mày có biết tại sao lũ đó lại tỏ ra tử tế như thế với mày không? Chúng nó đang đợi mày béo nẫn ra, rồi làm thịt mày thành bữa ăn ra trò. Chúng sẽ chén tuốt cả lông lẫn xương của mày!” con đười ươi rít lên.
Chiều hôm đó, bọn mèo ngạc nhiên khi không thấy con hải âu xuất hiện để xơi món yêu thích – món mực ống mà Secretario chôm được từ bếp nhà hàng.
Cảm thấy lo lắng, bọn chúng chạy đi tìm con hải âu, Zorba tìm thấy nó buồn bã nằm rúc giữa đám thú nhồi bông. “Con có đói không, Lucky? Chúng ta có món mực đấy,” Zorba bảo nó.
Con hải âu không buồn hé mỏ.
“Con thấy trong người khó chịu à?” Zorba lo lắng hỏi, “Con có bị ốm không?”
“Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?” nó hỏi mà không ngẩng đầu lên.
“Không, để con lớn nhanh và mạnh khỏe.”
“Rồi khi con béo, má sẽ mời bọn chuột tới chén thịt con phải không?” nó léc quéc, đôi mắt đẫm nước.
“Con nghe ở đâu chuyện vớ vẩn như thế hả?” Zorba ngoao lên giận dữ.
Nước mắt lưng tròng, Lucky thuật lại tất cả mọi thứ mà Matthew đã nói với nó. Zorba liếm khô nước mắt của Lucky và bỗng nhiên nhận ra mình đang giảng giải cho con hải âu nhỏ, điều mà nó chưa từng làm trước đây:
“Con là một con hải âu. Gã đười ươi đúng ở điểm đó, nhưng chỉ điểm đó thôi. Tất cả chúng ta đều yêu con, Lucky. Và chúng ta yêu con bởi vì con là một con hải âu. Một con hải âu xinh đẹp. chúng ta chưa từng phủ nhận khi nghe con nói con là mèo, bởi điều đó an ủi chúng ta rằng con muốn giống chúng ta, nhưng con khác với chúng ta và chúng ta vui với sự khác biệt đó. Chúng ta đã không cứu được mẹ con, nhưng chúng ta có thể giúp con. Chúng ta đã bảo vệ con từ khoảnh khắc con mổ vỡ lớp vỏ trứng ra đời. chúng ta đã dành cho con sự chăm sóc mà không hề nghĩ tới việc biến con thành một con mèo. Chúng ta yêu con như yêu một con hải âu. Chúng ta cảm thấy con cũng yêu chúng ta như vậy, chúng ta là bạn con, là gia đình của con, và chúng ta muốn con biết rằng nhờ con, chúng ta đã học được một điều đáng tự hào: chúng ta học được cách trân trọng ,quý mến và yêu thương một kẻ không giống chúng ta. Thật dễ dàng để chấp nhận và yêu thương một kẻ nào đó giống mình, nhưng để yêu thương ai đó khác mình thực sự rất khó khăn, và con đã giúp chúng ta làm được điều đó. Con là chim hải âu, và con phải sống cuộc đời của một con hải âu. Con phải bay. Khi con đã học hành tử tế, Lucky, ta hứa với con rằng con sẽ thấy hạnh phúc lắm, và sau đó tình cảm của chúng ta dành cho nhau thậm chí còn sâu sắc và đẹp đẽ hơn, bởi đó là tấm chân tình giữ hai loài vật hoàn toàn khác nhau.”
“Con sợ bay lắm,” Lucky léc quéc, đứng dậy.
“Khi con tập bay, ta sẽ ở đó với con,” Zorba thầm thì, liếm đầu Lucky. “Ta đã hứa với mẹ con rồi.”
Con hải âu nhỏ và con mèo mun to đùng, mập ú cùng bước đi – con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu và con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo.
(Lu-I Xe-pun-ve-da, Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Phương Huyền dịch,NXB Hội Nhà Văn,Hà Nội, 2017, tr.99-104)
III. Tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
1. Thể loại
Truyện ngắn
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Xuất xứ: Trích “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” gồm 11 chương, đây là chương VI, kể về hành trình Gioóc-ba thực hiện lời hưa thứ ba: dạy Lắc-ki bay.
3. Phương thức biểu đạt
Tự sự
4. Người kể chuyện
Ngôi thứ ba
5. Tóm tắt tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
Đoạn trích “Lắc-ki thật sự may mắn” trích chương VI của “Chuyện con mèo dạy hải âu bay” – tác phẩm gồm 11 chương, kể về việc chú mèo mun Gióc-ba nuôi dưỡng Lắc-ki, một con hải âu mồ côi. Mẹ Lắc-ki bị ngộ độc váng dầu nên đã chết gay sau khi đẻ trứng. Tình cờ chứng kiến cái chết của hải âu mẹ đáng thương. Gióc-ba đã hứa ba điều: sẽ ấp quả trứng, sẽ bảo vệ, nuôi lớn hải âu con và dạy nó bay. Bằng tình yêu thương Lắc-ki và được sự trợ giúp của các bạn mèo, Gióc-ba đã thực hiện được tất cả những lời hứa đó. Đoạn trích “Lắc-ki thực sự may mắn” bắt đầu kể về hành trình Gióc-ba thực hiện lời hứa thứ ba: dạy Lắc-ki bay! Qua đó thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
6. Bố cục tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
Gồm 3 phần:
+ Phần 1: Từ đầu đến “mà mèo thì không bay”: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với mèo Anh-xtanh.
+ Phần 2: Tiếp theo đến “con đười ươi rít lên”: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi.
+ Phần 3: Còn lại: Cuộc nói chuyện của Lắc-ki và Gióc-ba.
7. Giá trị nội dung tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
Câu chuyện về những chú mèo tìm cách dạy hải âu tập bay thể hiện tình yêu thương giữa các loài vật với nhau. Chúng yêu thương nhau bằng tất cả tấm lòng, từ trái tim đơn giản và không toan tính.
8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
Nhân hóa các con vật trong các cuộc đối thoại trên tinh thần vẫn giữ những đặc điểm thực tế của chúng để tạo nên câu chuyện thú vị, hấp dẫn.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lắc-ki thực sự may mắn
1. Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với con đười ươi Mét-thiu
- Thời điểm: Một buổi chiều, tại một tiệm tạp hóa.
- Hành động và lời nói của các nhân vật:
* Mét-thiu độc ác, thô lỗ.
- Lời nói miệt thị, cay độc, rít lên và gọi Lắc-ki là 'con nhỏ bẩn thỉu kia'.
- Hách dịch, đánh đồng 'Chim chóc con nào chẳng thế.'
- Reo những ý nghĩ xấu vào đầu Lắc-ki:
+ Gọi những con mèo là 'khố rách áo ôm'.
+ Phân biệt sự khác nhau giữa Lắc-ki và những con mèo.
+ Chê Lắc-ki giống giáo sư mèo thông thái 'dở hơi', 'đần độn'.
+ Reo ý xấu: 'Chúng nó đợi mày béo nẫn ra rồi làm thụt mày thành bữa ăn ra trò.'.
Miệt thị, lời nói cay độc.
* Lắc-ki ngây thơ, ngoan ngoãn
- Rụt rè, lễ phép hỏi lại khi bị miệt thị 'Tại sao ngày lại gọi cháu thế, thưa ngài khỉ?'.
- Giải thích, tìm sự đồng cảm từ người có ác ý 'Ngài nhầm rồi.... Anh - xtanh'.
Buồn tủi, chịu sự tác động về tâm lí.
2. Cuộc nói chuyện của Lắc-ki với những con mèo
a) Cuộc trò chuyện thứ nhất
* Lắc-ki
- Dáng hình: lớn nhanh như thổi, ra dánh một con hải âu tuổi thiếu niên thon thả vưới lớp lông vũ mềm màu bạc.
- Được yêu thương: được bao bọc trong sự yêu thương, sống trong tiệm tạp hóa của Harry.
- Rất nghe lời: theo hướng dẫn của Đại Tá co mình nằm bất động giả vờ là những con chim nhồi bông.
- Thích khám phá: trầm trồ trước hàng nghìn loại vật thể chứa trong các căn phòng.
- Mong muốn được hòa nhập với loài mèo:
+ Hỏi 'Tại sao con lại phải bay?'.
+ Khẳng định mong muốn 'Nhưng con không thích bay. Và con cũng không thích làm hải âu' 'Con muốn làm mèo, mà mèo thì không bay.'.
* Anh-xtanh
- Giáo sư mèo thông thái hết lòng giúp: Tìm trong mọi cuốn sách để tìm phương pháp giúp Lắc-ki học bay.
+ Giải thích cho Lắc-ki hiểu rằng Lắc-ki là hải âu.
+ Điểm đặc trưng: 'thật là khủng khiếp'.
Cuộc nói chuyện thể hiện sự yêu thương từ cả giáo sư mèo và Lắc-ki. Thấy được ước muốn hòa nhập, tự coi bản thân là mèo của Lắc-ki.
b) Cuộc trò chuyện thứ hai
Thời điểm: Chiều hôm cùng ngày sau khi Lắc-ki nói chuyện với Gióc-ba.
* Lắc-ki
- Tâm trạng buồn bã:
+ Không xuất hiện xơi món mực ống yêu thích.
+ Chui rúc, trốn tránh giữa đám thú nhồi bông,
+ Khi được hỏi, không buồn hé mỏ.
+ Hỏi mà không ngẩng đầu 'Má muốn con ăn để con béo tròn, ngon lành phải không?'.
+ Vừa kể vừa nước mắt lưng tròng.
- Sợ hãi việc tập bay 'Con sợ bay lắm.'.
- Yêu thương, biết ơn 'Con chim duỗi một cánh vắt ngang lưng con mèo
* Gióc-ba
Tình yêu thương:
- Secretario chôm món yêu thích cho Lắc-ki.
- Lo lắng vì không thấy Lắc-ki, đi tìm hỏi chuyện.
- Giải thích lí lẽ:
+ Khẳng định điểm đúng của Mét-thiu.
+ Phân tích điểm sai để thể hiện tình yêu thương.
+ Công nhận tình cảm của Lắc-ki với chúng.
+ Phân tích điểm thú vị khi thành một con hải âu.
- Luôn sẵn sàng ở cạnh cổ vũ khi Lắc-ki học bay.
- Hành động dịu dàng: 'Con mèo dịu dàng liếm đầu con hải âu.'.
Cuộc nói chuyện thể hiện tình yêu thương giữa cả hai loài vật dành cho nhau.