Tác giả tác phẩm Nam quốc sơn hà (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 8 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Nam quốc sơn hà Ngữ văn lớp 8 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Nam quốc sơn hà - Ngữ văn 8
I. Tác giả văn bản Nam quốc sơn hà
- Bài thơ hiện chưa rõ tác giả.
- Nhiều tài liệu cho là của Lý Thường Kiệt. Có những ghi chép khác nhau về sự xuất hiện của bài thơ.
- Theo sách Lĩnh nam chích quái, bài thơ được một vụ thần ngâm đọc khiến cho quân Tống hoảng sợ, giúp vua Lê Đại Hành đánh bại quân xâm lược năm 981.
- Theo sách Đại Việt sử kí toàn thư, khi Lý Thường Kiệt chặn đánh quân Tống bên sông Như Nguyệt năm 1076, bài thơ đã vang lên trong đền thờ thần sông là Trương tướng quân. Sau đó quân Tống thảm bại đúng như lời trong bài thơ.
II. Đọc tác phẩm Nam Quốc Sơn Hà
- Phiên âm:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên phận định tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
- Dich nghĩa:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở,
Giới phận đó đã được định rõ ràng ở sách trời.
Cớ sao kẻ thù lại dám đến xâm phạm,
Chúng mày nhất định sẽ nhìn thấy việc chuốc lấy bại vong.
- Dịch thơ:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở
Giặc giữ cớ sao phạm đến đây
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
III. Tìm hiểu tác phẩm Nam quốc sơn hà
1. Thể loại
Nam quốc sơn hà thuộc thể loại thơ thất ngôn tứ tuyệt đường luật.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Tương truyền trong giai đoạn sục sôi chiến đấu cùng giặc ngoại xâm, Lý Thường Kiệt đã sáng tác nên bài thơ này. Vào đêm khuya thanh vắng, ông đã ở trong đền thờ và cất giọng đọc bài thơ. Giọng hào hùng, hào khí chói lóa khiến quân giặc hoảng loạn. Về sau như lời bài thơ, quân và dân ta đã chiến thắng quân giặc.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản Nam quốc sơn hà có phương thức biểu đạt là biểu cảm
4. Ý nghĩa nhan đề Nam quốc sơn hà
Thể hiện tinh thần yêu nước,Khẳng định chủ quyền dân tộc và chứng minh tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến của quân và dân ta.
5. Tóm tắt Nam quốc sơn hà
Bài thơ là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc khẳng định chủ quyền đất nước. Sự khẳng định tuyệt đối cùng quyết tâm bảo vệ toàn vẹn chủ quyền trước những kẻ xâm lăng, cảnh báo bất cứ kẻ nào dám xâm phạm vào chủ quyền đều phải chuốc lấy thất bại. Chân lí về chủ quyền độc lập rất thuận lòng người, hợp ý trời của nước Nam đã được tác giả khẳng định bằng tất cả sức mạnh của lòng yêu nước, căm thù giặc.
6. Bố cục văn bản Nam quốc sơn hà
Bố Cục Bài Thơ Nam Quốc Sơn Hà được chia làm 2 phần như sau:
- Phần 1 (Hai câu đầu): Khẳng định chủ quyền lãnh thổ đã được phân định rõ ràng.
- Phần 2 (Hai câu cuối): Khẳng định sự quyết tâm chống lại kẻ thù.
7. Giá trị nội dung
- Văn bản thể hiện niềm tin về sức mạnh của chính nghĩa và được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên. Khẳng định chủ quyền về lãnh thổ của đất nước và nêu cao ý chí quyết tâm bảo vệ chủ quyền đó trước mọi kẻ thù xâm lược.
- Tuy nhiên qua từng câu chữ, ta vẫn bắt gặp những dòng cảm xúc, tâm trạng của tác giả. Đó là 1 niềm tự hào, tự tin, nỗi tức giận.
8. Giá trị nghệ thuật
- Thể thơ ngắn gọn, súc tích.
- Hình thức văn nghị luận với lập luận chặt chẽ
- Lựa chọn ngôn ngữ, giọng hùng hồn, đanh thép, dõng dạc.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Nam quốc sơn hà
1. Hai câu đầu
- Giọng thơ: Hùng hồn, rắn chắc, trang trọng và đầy tự hào
* Câu 1: Nam quốc: nước Nam àVùng sông núi phía Nam là một nước chứ không phải một quận huyện của Trung Hoa à Khẳng định ý thức độc lập chủ quyền của một dân tộc.
- Đế: chữ quan trọng nhất à Chứng tỏ nước Nam là có vua, có chủ, có quốc chủ. Đế còn có nghĩa đại diện cho nhân dân. Nam đế là vua đại diện cho nhân dân nước Nam.
- Nam đế cư: Nơi ở của vua nước Nam, xử lí mọi công việc của nước Nam là vua nước Nam. Nơi thuộc chủ quyền của người Việt vì vua gắn với nước.
=> Ý thức độc lập, tự cường; bình đẳng, ngang hàng với các hoàng đế Trung Hoa.
* Câu 2:
- Âm điệu: Hùng hồn, rắn rỏi diễn tả sự vững vàng của tư tưởng và niềm tin sắt đá vào chân lí.
- Khẳng định ranh giới nước Nam đã được phân định rõ ràng hợp với đạo trời – đất, thuận với lòng người. Tạo hoá đã định sẵn nước Việt Nam của người Việt Nam.
=> Khẳng định nước Nam là một nước có độc lập, có chủ quyền, có lãnh thổ riêng. Đó là một sự thật hiển nhiên, không thể thay đổi.
2. Hai câu cuối
- Giọng điệu: Vừa thách thức vừa quả quyết
* Câu 3:
- Là câu hỏi, hướng về bọn giặc ngông cuồng.
- Là lời cảnh báo về hành động xâm lược liều lĩnh, phi nghĩa, vô đạo lý của phong kiến phương Bắc.
* Câu 4: Lời cảnh báo hậu quả thê thảm đối với bọn xâm lăng nếu như cố tình xâm phạm đến nước Nam và khẳng định sức mạnh vô địch của quân và dân ta.
Hai câu cuối là lời cảnh báo đanh thép, kiên quyết thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng để giữ vừng nền độc lập, tự do của Tổ quốc
- Khẳng định vững chắc chủ quyền độc lập và bình đẳng của dân tộc ta
-Khẳng định quyết tâm sắt đá: sẽ đập tan mọi âm mưu, hành động liều lĩnh của bất kì kẻ xâm lược ngông cuồng nào, cho dù chúng tàn bạo, nham hiểm và mạnh đến đâu.
V. Các đề văn mẫu
Đề 1: Phân tích Nam quốc sơn hà
Chủ quyền dân tộc là vấn đề không chỉ được quan tâm ở mảng chính luận mà còn là nguồn cảm hứng cho rất nhiều tác giả. Cùng với dòng chảy của lịch sử, biết bao tác phẩm chứa đậm tình yêu đất nước đã ra đời và sống mãi đến ngày nay. Trong đó, “Nam quốc sơn hà” là áng thơ bất hủ của văn học Việt Nam. Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà, ta sẽ thấy được niềm tự hào, tự tôn dân tộc lớn lao của dân tộc.
Phân tích bài thơ “Nam quốc sơn hà” được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Cho đến nay, tác giả thực sự của bài thơ vẫn chưa được làm rõ, nhưng theo những tư liệu xưa, bài thơ được xem là do Lý Thường Kiệt sáng tác. Bài thơ được xem là “thơ thần” bởi lẽ nó không chỉ khẳng định được vấn đề về chủ quyền lãnh thổ, nền độc lập của nước ta, mà còn thể hiện được tính thần lực, lòng tự tôn dân tộc mạnh mẽ của vị chủ tướng tài ba Lý Thường Kiệt cũng như những người dân Việt Nam. Bài thơ cũng là lời tuyên bố, khẳng định đanh thép của tác giả đối với những kẻ có ý định xâm phạm vào lãnh thổ nước ta, xâm phạm vào lòng tự tôn của một dân tộc Việt Nam anh hùng.
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà phần mở đầu bài thơ, tác giả Lý Thường Kiệt đã khẳng định một cách chắc chắn, mạnh mẽ về vấn đề chủ quyền, ranh giới lãnh thổ của dân tộc Đại Việt. Đó là ranh giới đã được định sẵn, là nơi sinh sống của người dân Đại Việt từ ngàn đời nay. Lời khẳng định này không phải chỉ là lời khẳng định của tác giả, mà tác giả còn đưa ra những luận chứng sắc sảo, đó là bởi “thiên thư” (sách trời) quy định. Tức sự độc lập, chủ quyền về lãnh thổ ấy được trời đất quy định, chứng giám. Một sự thật hiển nhiên mà không một ai có thể chối cãi được:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Theo tác giả, sông núi nước Nam, bất cứ sự vật nào trên đất Nam đều là những vật thuộc quyền sở hữu của người Nam. Đây không chỉ là những hình ảnh biểu tượng cho ranh giới, chủ quyền của dân tộc Việt Nam mà còn khẳng định một cách chắc chắn quyền sở hữu của “sơn hà” ấy là của người Việt Nam. Có thể thấy, đây là lần đầu tiên trong một tác phẩm thơ văn, vấn đề chủ quyền dân tộc được khẳng định. Và mặc dù là tác phẩm đầu tiên, lời thơ vẫn vang lên vô cùng mạnh mẽ, hào sảng. Dân tộc Việt Nam không chỉ là dân tộc có chủ quyền, có lãnh thổ mà dân tộc ấy còn có người đứng đầu, người quản lí, làm chủ người dân của quốc gia ấy. Đó chính là “Nam đế”. Tác giả cũng mạnh mẽ khẳng định vị thế của người đứng đầu đất nước. Không phải là vương, là chư hầu nhỏ bé mà là “đế”, là vị vua ngang hàng với bất cứ vị vua nào. Chủ quyền ấy, lãnh thổ cương vực ấy không phải do người Nam tự quyết định lựa chọn cho mình, người dân nơi ấy chỉ sinh sống, làm ăn sinh hoạt từ rất lâu đời, do sự định phận của “sách trời”, đó là đấng cao quý vì vậy mọi sự quy định, chỉ dẫn của “trời” đều rất có giá trị, đều rất đáng trân trọng.
Theo giai thoại, trong cuộc chiến đấu chống quân Tống của quân dân Đại Việt, chủ tướng Lý Thường Kiệt đã đọc bài thơ thần “Nam quốc sơn hà” ở đền thờ hai vị thần Trương Hống, Trương Hát – hai vị thần của sông Như Nguyệt. Bài thơ thần đã vang lên vào thời điểm đêm khuya, lại được vọng ra hùng tráng, đanh thép từ một ngôi đền thiêng liêng. Vì thế đã làm cho quân Tống vô cùng khiếp sợ. Bọn chúng đã vô cùng hoảng loạn, lo lắng, nhuệ khí của quân giặc bị suy giảm một cách nhanh chóng. Cũng nhờ đó mà quân dân ta có thể tạo ra một chiến thắng lừng lẫy, oai hùng sau đó, tạo được tiếng vang làm biết bao đế chế phải khiếp sợ.
Hai từ “tiệt nhiên” (rành rành) là dùng để chỉ sự hiển hiện, tất yếu mà ai cũng có thể nhận biết và phân biệt được. “Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” có nghĩa vùng lãnh thổ ấy, chủ quyền ấy của người Nam đã được sách trời ghi chép rõ ràng, dù có muốn cũng không thể chối cãi, phủ định. Như vậy, ở hai câu thơ đầu, tác giả Lý Thường Kiệt đã đưa ra lời khẳng định hào sảng, chắc chắn về vùng lãnh thổ, ranh giới quốc gia. tác giả cũng khẳng định chủ quyền, quyền làm chủ của nhân dân Đại Việt với quốc gia, dân tộc mình. Hơn thế, tác giả còn rất tỉnh táo, sắc sảo khi đưa ra những luận cứ đúng đắn, giàu sức thuyết phục. Đó là sự thật mà không một kẻ nào, một thế lực nào có thể phủ định, bác bỏ được nó. Ngay từ những lời đầu tiên, bài thơ đã làm nổi bật sự hào hùng, mạnh mẽ và rất đỗi tự hào của tác giả về chủ quyền của dân tộc mình. Và hơn cả, đó cũng chính là niềm tự hào, tự tôn chung của cả dân tộc Việt Nam.
Phân tích bài thơ Nam quốc sơn hà từ sự khẳng định mạnh mẽ vấn đề chủ quyền của dân tộc Đại Việt, Lý Thường Kiệt đã lớn tiếng khẳng định, cũng là lời cảnh cáo đến kẻ thù. Chúng sẽ phải nhận những kết cục bi thảm nếu biết rõ nhưng vẫn cố tình thực hiện hành động xâm lăng lãnh thổ, gây ra những mất mát, đau thương cho nhân dân Đại Việt:
“Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
Sự thật hiển nhiên rằng, “Nam quốc sơn hà” là do người Nam ở, người Nam làm chủ. Thế nhưng lũ giặc lại không hề màng đến sự quy định mang tính tất yếu ấy, chúng cố tình xâm phạm Đại Việt, cũng là xúc phạm đến sự tôn nghiêm của đạo lí, của luật trời: “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm” hành động ngông cuồng, phi nghĩa. Hành động này của bọn chúng thật đáng bị phê phán, thậm chí đáng để trừng phạt bằng những hình thức thích đáng nhất. Và ở trong bài thơ này, tác giả Lý Thường Kiệt cũng đã đanh thép khẳng định cái kết cục đầy bi đát, ê chề cho lũ cướp nước, coi thường đạo lí: “Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”(Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Với tất cả sức mạnh cũng như lòng tự tôn, tính chính nghĩa của dân tộc Đại Việt thì lũ xâm lăng chỉ có một kết cục duy nhất, một kết quả không thể tránh khỏi. Bọn chúng không chỉ thua một cách ê chề, nhục nhã mà còn phải cúi đầu trước một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường, dũng cảm và kiên quyết chiến đấu cho độc lập, chủ quyền của dân tộc. Dù sau này có biết bao tác phẩm khác nói về chủ đề này, thì “Nam quốc sơn hà” vẫn là áng thơ bất hủ, sống mãi trong trái tim của người Việt Nam. Là niềm tự hào bất diệt của một dân tộc nhỏ bé nhưng phi thường.
Với giọng điệu hào sảng, lập luận sắc bén, chỉ với bốn câu thơ, tinh thần và ý chí của nhân dân Việt Nam hiện lên rất rõ ràng. Đó là lời khẳng định chủ quyền dân tộc, là lời quyết tâm bảo vệ đất nước của người chủ tướng, cũng là đại diện cho hàng triệu triệu người dân. Qua bài thơ, lòng tự tôn dân tộc, tình yêu đất nước được thể hiện mạnh mẽ, đại diện cho truyền thống yêu nước ngàn đời của nhân dân ta. Bài thơ cũng là lời nhắn nhủ thế hệ sau phải trân trọng, gìn giữ gấm vóc non sông, xứng đáng với những gì cha ông đã đánh đổi và bảo vệ tới cùng.