Tác giả tác phẩm Vịnh cây vông (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 8 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Vịnh cây vông Ngữ văn lớp 8 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 8. Mời các bạn đón xem:

1 83 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Vịnh cây vông - Ngữ văn 8

I. Tác giả Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Công Trứ - vị quan 'ngông' dưới ba đời vua - VnExpress

- Nguyễn Công Trứ (1778 – 1958) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn.

- Các sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm với nhiều thể loại thơ, phú, câu đối, hát nói. Riêng thơ Đường luật có khoảng 150 bài.

- Tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn, thế thái nhân tình đen bạc.

 - Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa hát nói trở thành thể loại văn học dân tộc.

II. Đọc tác phẩm Vịnh cây vông

Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông.
Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.
Đã biết nòi nào thì giống nấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

IIi. Tìm hiểu tác phẩm Vịnh cây vông

Soạn văn 8 Thực hành đọc: Vịnh cây vông Kết nối tri thức

1. Thể loại

Vịnh cây vông thuộc thể loại thơ thất ngôn bát cú đường luật.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Tương truyền bài này làm để nhạo quan Lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840), trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu.

- Văn bản trích trong Thơ văn Nguyễn Công Trứ, Lê Thước – Hoàng Ngọc Phách – Trương Chính giới thiệu, hiệu đính, chú thích, NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.71)

3. Phương thức biểu đạt

Bài thơ Vịnh cây vông có phương thức biểu đạt là biểu cảm.

4. Ý nghĩa nhan đề Vịnh cây vông

Cây vông mang ý nghĩa biểu tượng, là hình ảnh ẩn dụ cho Quan lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng - đại diện cho bộ máy quan lại bất tài, vô dụng.

5. Tóm tắt Vịnh cây vông

Bài thơ Vịnh cây vông được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Nhờ vào nghệ thuật đối và nghệ thuật ẩn dụ, tác giả mượn hình ảnh cây vông để châm biếm, đả kích bộ máy quan lại: cây vông mang ý nghĩa biểu tượng, là hình ảnh ẩn dụ cho Quan lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng. Đó là bộ máy quan lại bất tài, vô dụng.

 

 

 

 

 

 

6. Bố cục bài thơ Vịnh cây vông

Gồm 2 phần:

- Phần 1: 4 câu đầu: Hình ảnh cây vông

- Phần 2: 4 câu cuối: Hình ảnh con người

7. Giá trị nội dung

Qua hình ảnh cây vông nhà thơ muốn nói về đám triều thần tham lam, bất tài, vô dụng bằng giọng điệu mỉa mai, châm biếm.

8. Giá trị nghệ thuật

- Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật.

- Nghệ thuật đối và nghệ thuật ẩn dụ.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm

1. Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật

Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật.

2. Đối tượng của tiếng cười trào phúng

Quan lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840), trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu.

3. Nghệ thuật ẩn dụ (dùng hình tượng cây vông để châm biếm, đả kích)

Mượn hình ảnh cây vông để châm biếm, đả kích bộ máy quan lại: cây vông mang ý nghĩa biểu tượng, là hình ảnh ẩn dụ cho Quan lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng. Đó là bộ máy quan lại bất tài, vô dụng.

V. Các đề văn mẫu

 

TOP 11 mẫu Phân tích bài thơ Vịnh cây vông (2024) SIÊU HAY

 

 

 

 

 

 

Đề bài: Phân tích tác phẩm Vịnh cây vông

 

Nguyễn Công Trứ là nhân vật lịch sử nổi tiếng, in đậm dấu ấn không chỉ trong lĩnh vực văn chương mà còn ở nhiều phương diện của đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Ông thường viết về chí nam nhi, triết lý cầu nhàn hưởng lạc; cản nghèo và nhân tình thế thái. Bài thơ “Vịnh cây vông” là bài thơ tiêu biểu cho nhân tình thế thái. Tương truyền bài thơ này làm để nhạo quan Lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840), trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu. Mượn hình ảnh cây vông, Nguyễn Công Trứ đã để lại tác phẩm có giá trị sâu sắc.

Hai câu thơ đề giới thiệu về loài cây vông và tương quan giá trị giữa cây vông với một số loài cây khác.

Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,

Cao lớn làm chi những thứ vông.

“Biển, nam, khởi, tử” là bốn loài cây gỗ quý, có giá trị cao đối với con người. Bên cạnh đó, vông một loại cây to lớn nhưng gỗ xốp, mềm, cao lớn nhanh nhưng dễ bị mối, mọt, chịu lực kém, thuộc loại ngô đồng. Cây vông về hình thức giống với bốn loại cây được nêu ở câu thơ đầu tuy nhiên so về công dụng thì cây vông kém hẳn về giá trị. Chính vì thế, Nguyễn Công Trứ đã dùng cụm từ “chẳng vun trồng” để nhắc tới biền, nam, khởi, tử trong khi lại dùng “những thứ vông” để nói về cây vông. Phép đảo ngữ “ cao lớn làm chi – những thứ vông” nhấn mạnh thái độ chê bai, xem thường của tác giả đối với loài cây này, đồng thời mỉa mai người trồng không biết chọn loại cây quý, có giá trị để nuôi dưỡng.

Tuổi tác càng già, già xốp xáp,

Ruột gan không có, có gai chông.

Nếu hai câu đề giới thiệu cây vông thì hai câu thực tập trung miêu tả đặc điểm của cây. Theo lẽ thường, các loài cây gỗ càng nhiều năm tuổi càng có giá trị cao tuy nhiên cây vông lại trái ngược. Phép đối “tuổi tác càng già - già xốp xáp”; Ruột gan không có - có gai chông” nhấn mạnh đặc tính xốp, mềm, chịu lực kém của cây vông. Từ láy “xốp xáp” gợi sự xốp rỗng, yếu ớt của thân cây, không những không có sức chịu đựng tốt còn đầy rẫy gai nhọn, gây hại cho con người. Hai câu thơ gợi liên tưởng đến quan lại họ Hà mục ruỗng, rỗng tuếch, vừa không có đạo đức, không làm đúng bổn phận của mình vừa tàn ác, bóc lột dân nghèo.

Ra tài lương đống không nên mặt,

Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.

Nguyễn Công Trứ đã lấy công dụng ít ỏi của cây vông để ví với vai trò bộ máy quan lại Hà Tôn Quyền ở hai câu luận. Trong khi các loại cây: biển, nam, khởi, tử được dùng làm cột trụ, bệ chống chắc chắn thì với đặc điểm “xốp xáp” của cây vông thì chỉ có thể làm bờ rào, phên giậu. Cũng như quan lại họ Hà, mặc dù Mang danh “lương đống”, trụ cột triều đình nhưng không làm tròn nhiệm vụ, chỉ biết dựa vào chống lưng, quyền lực để duy trì chế độ cai trị của mình. Tác giả sử dụng từ “lương đống, phiên ly” thay vì dùng rường cột, phên giậu khi nói về tác dụng của cây vông bởi hai từ Hán Việt mang sắc thái nghiêm trang, trang trọng trong khi các từ “không nên mặt, chút nỡ lòng ” lại mang nghĩa phủ định, đánh giá thấp. Sự tương phản, đối lập này càng làm cho câu thơ mang tính châm biếm, đả kích sâu hơn.

Đã biết nòi nào thì giống nấy,

Khen cho rứa cũng trổ ra bông!

Hai câu kết là lời chê bai, khinh rẻ, xem thường của tác giả đối với cây vông hay trực tiếp là cha con nhà họ Hà. “Nòi nào thì giống nấy – cũng trổ ra bông” - vừa chế giễu giống cây kém giá trị nhưng vẫn trổ bông phát triển mạnh mẽ, vừa mỉa mai hai cha con nhà họ Hà nòi nào giống nấy vô dụng nhưng mới có chút khen ngợi đã hãnh diện, ngày càng duy trì cường quyền. Mặc dù “khen” nhưng thực chất là sự chê bai, khinh thường. Trong hoàn cảnh bấy giờ không thể trực tiếp đứng ra vạch trần sự vô dụng, xấu xa của bọn quan lại, Nguyễn Công Trứ đã gián tiếp mượn hình ảnh cây vông để thể hiện sự phẫn nộ, khinh bỉ của tác giả và của nhân dân đối với quan lại chỉ biết dựa vào chống lưng làm càn.

Bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với niêm, luật chặt chẽ, vận dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo tạo sự đa nghĩa, có sự kết hợp với ngôn ngữ Hán Việt, giọng thơ châm biếm, mỉa mai... Nguyễn Công Trứ đã chỉ trích thực trạng hàng ngũ quan lại vô tài vô đức cũng như việc dùng người mù quãng của triều đình nhà Nguyễn.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1 83 lượt xem