Tác giả tác phẩm Sang thu (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 7 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Sang thu Ngữ văn lớp 7 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 7. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Sang thu - Ngữ văn 7
I. Tác giả
- Hữu Thỉnh sinh năm 1942
- Quê quán: Vĩnh Phúc
- Phong cách nghệ thuật: Các tác phẩm của ông thể hiện, tình cảm sâu lắng, thiết tha, sự gắn bó với quê hương đất nước
-Tác phẩm chính: Đường tới thành phố (1979), Thương lượng với thời gian (2005), Tiếng hát trong rừng (2015)
II. Tác phẩm Sang Thu
1. Thể loại
thơ 5 chữ
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Đây là bài thơ được sáng tác năm 1977 trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố của Hữu Thỉnh.
3. Phương pháp biểu đạt
miêu tả, biểu cảm
4. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề bài thơ thể hiện cách lựa chọn khoảnh khắc thời gian, bắc cầu giữa cái không và cái có. Chính cảm giác mơ hồ, tinh tế đã chuyên chở cho tâm hồn thu theo cách của mùa thu.
- Nhạy cảm, nhẹ nhàng, vừa lạ vừa quen, nó đã đánh thức nơi ta những gì da diết nhất.
- “Sang thu” còn là của đời người. Đời người sang thu (sang tuổi xế chiều) nhiều từng trải, vững vàng hơn trước những biến động của cuộc đời.
5. Tóm tắt tác phẩm Sang Thu
Bài thơ miêu tả khoảnh khắc cảnh vật giao mùa từ hạ sang thu. Bức tranh thu tuyệt đẹp ở một miền quê. Từ đó tác giả thể hiện tình yêu thiên nhiên của mình và thể hiện những suy ngẫm, triết lý cuộc đời
6. Bố cục tác phẩm Sang Thu
- Phần 1 khổ thơ 1: Những tín hiệu giao mùa
- Phần 2 khổ thơ thứ 2: Bức tranh thiên nhiên mùa thu
- Phần 3 khổ thơ thứ 3: Những suy tư và chiêm nghiệm của nhà thơ.
7. Giá trị nội dung tác phẩm Sang Thu
- Cảm xúc của tác giả trước khoảnh khắc giao mùa tuyệt đẹp của thiên nhiên, và những suy ngẫm chân lý cuộc đời
8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Sang Thu
- Thể thơ năm chữ
- Sử dụng hình ảnh sinh động hấp dẫn
- Ngôn ngữ thơ trong sáng, giản dị, gợi nhiều cảm xúc
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Sang Thu
1. Bức tranh mùa thu
- Tín hiệu giao mùa được tác giả cảm nhận qua xúc giác, khứu giác,thị giác,tri giác
+ Hương ổi, gió se, sương chùng chình
+ Tác giả đã sử dụng “ bỗng” ngạc nhiên khi mùa thu đến
+ Gió se là gió đặc trưng của mùa thu, khiến làn da cảm nhận được hơi lạnh và khô
+ Sử dụng tính từ “phả” để sự nhẹ nhàng, hòa quyện, huơng thu hòa trong làn gió se trải đều khắp các ngõ ngách làng quê
+ Hình ảnh “sương chùng chình” là làn sương mỏng nhẹ bắt đầu xuất hiện, có lẽ làn sương cũng như cố chậm lại có vẻ đợi chờ ai
- Vẻ đẹp mùa thu tại vùng nông thôn thật trầm mặc, dịu dàng
+ “sông dềnh dàng”, “chim vội vã”, “mây vắt nửa mình”
+ Sông mùa nước cạn chảy chậm rãi
+ Chim vội vã bay vào phương đông tránh rét
+ Mây còn chút vấn vương của mùa hạ
- Mùa thu vẫn còn nắng
- Những con mưa đã vơi dần
→ Bức tranh mùa thu thật đẹp, giản dị, rất đỗi yên bình. Tất cả được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan
2. Chân lý cuộc đời
- Hình ảnh “sấm” mang cả 2 ý nghĩa thiên nhiên và đời người
+ Sấm là một hiện tượng của thiên nhiên báo hiệu trời sắp mưa
+ Đối với cuộc đời sấm là những khó khăn, thử thách con người vượt qua
- “ Hàng cây đứng tuổi” là những cây cổ thụ già lâu năm không dễ bị quật ngã
+ Với đời người là tuổi đã từng trải, nếm đủ sương gió cuộc đời
- Suy ngẫm về triết lý sống cuộc đời khi người ta đã đến tuổi, đã trải qua đủ sóng gió của cuộc đời, nhiều khinh nghiệm, những khó khăn thử thách cũng chẳng còn bất ngờ.
IV. Các bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Sang thu
Bài tham khảo 1
Mùa thu là đề tài muôn thuở của thơ ca cổ kim, ta bắt gặp một không gian thấm đẫm chất thu của Nguyễn Du: “Người lên ngựa, kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”; ta lại gặp một mùa thu rất hiện đại trong thơ Xuân Diệu: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/ Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Các nhà thơ đều có những khám phá, phát hiện riêng về mùa thu. Nhưng ít có nhà thơ nào lại có những cảm nhận tinh tế về bước chuyển mình từ hạ sang thu như nhà thơ Hữu Thỉnh trong bài “Sang thu”.
Bài thơ được sáng tác năm 1977, in trong tập “Từ chiến hào đến thành phố”. Ngay từ nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về khoảnh khắc giao mùa của thiên nhiên, và còn đâu đó ẩn dấu khoảnh khắc giao mùa của đời người. Khổ thơ đầu là những cảm nhận vô cùng tinh tế, là giác quan nhạy bén của tác giả để cảm biết được hết những mong manh tín hiệu khi thu về:
Bỗng nhận ra hương ổiPhả vào trong gió seSương chùng chình qua ngõHình như thu đã về.
Cảm nhận đầu tiên của tác giả chính là hương ổi, một mùi hương thật thân quen, gần gũi. Hương ổi kết hợp với từ “bỗng” gợi lên biết bao cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng, cùng với đó là động từ “phả” cho thấy hương thơm đậm sánh lại hòa vào trong cơn gió se se của mùa thu. Không chỉ vậy từ phả còn cho thấy tư thế chủ động của hương ổi, khiến hương thơm càng sánh, càng đậm hơn.
Hương ổi cũng gợi nên không gian rất làng quê với những ngõ xóm sum suê cây lá, đó chính là hương vị mùa thu chỉ có riêng trong thơ Hữu Thỉnh. “Sương chùng chình” – nghệ thuật nhân hóa, cho ta thấy dáng vẻ của sương cũng như đang quyến luyến, cố đi chậm thật chậm để tận hưởng nốt cái ấm áp của mùa hè, dường như nó chưa muốn bước hẳn sang thu. Với hệ thống hình ảnh độc đáo, miêu tả sinh động tác giả đã miêu tả một cách tài tình những dấu hiệu đầu tiên của mùa thu.
Trước những tín hiệu thu về lòng người dường như cũng có sự băn khoăn, xốn xang. Tình thái từ “Hình như” diễn đạt cảm xúc mơ hồ, chưa xác định, dường như nhà thơ vẫn còn đôi chút băn khoăn, đôi chút ngỡ ngàng: liệu có phải mùa thu đã đến thật không? Khổ thơ là những cảm nhận tinh tế, mới mẻ của tác giả lúc thu sang.
Ẩn sau những thay đổi của đất trời khi sang thu là tâm hồn tinh tế của nhà thơ, là niềm vui, hạnh phúc khi thu về. Những băn khoăn của tác giả ở khổ thơ trên, đã được giải đáp bằng những tín hiệu của đất trời thấm đẫm chất thu:
Sông được lúc dềnh dàngChim bắt đầu vội vãCó đám mây mùa hạVắt nửa mình sang thu
Bắt đầu từ những khúc sông “dềnh dàng”, chậm chạp chảy, ta không còn thấy cái dữ dội, những dòng nước cuồn cuộn như mùa hè nữa mà thay vào đó là dòng sông thu vô cùng trong trẻo, tĩnh lặng, chảy hiền hòa như đang ngẫm ngợi điều gì. Nghệ thuật nhân hóa khiến dòng sông như đang nghỉ ngơi sau một mùa hạ cuộn xiết chảy.
Ngược lại những chú chim lại vội vã về phương Nam tránh rét, đồng thời cũng gợi lên những lo toan, tất bật của cuộc sống đời thường. Hình ảnh đặc sắc nhất là đám mây mùa hạ “vắt nửa mình sang thu”. Nghệ thuật nhân hóa khiến đám mây vừa hư vừa thực, tái hiện được nhịp điệu của thời gian. Đồng thời tác giả cũng hữu hình hóa cánh cổng thời gian vốn vô hình qua hình ảnh đám ấy.
Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế, sống động qua những câu thơ giàu chất tạo hình. Ông quả là một người tinh tế và nhạy cảm khi nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong khoảnh khắc giao mùa. Khổ thơ cuối cùng lại thể hiện rõ hơn nữa sự tinh tế của tác giả trong việc khám phá những biến chuyển của đất trời từ cuối hạ sang thu:
Vẫn còn bao nhiêu nắngĐã vơi dần cơn mưa
Hữu Thỉnh sử dụng linh hoạt phép đối “vẫn còn – vơi dần” , “nắng – mưa” gợi sự vận động ngược chiều của các hiện tượng thiên nhiên tiêu biểu cho hai mùa. Những cơn mưa mùa hè đã vơi dần, bớt dần; nắng cũng không còn chói gắt, làm người ta lóa mắt nữa mà đã là ánh nắng mùa thu dịu nhẹ như màu mật ong.
Tín hiệu thu về đã rõ nét hơn bao giờ hết. Cái đặc sắc, tinh nhạy của Hữu Thỉnh còn được thể trong cách ông sắp xếp từ ngữ giảm dần về mức độ: vẫn còn – vơi – bớt cho thấy sự nhạt dần của mùa hạ, và mùa thu mỗi ngày lại đậm nét hơn. Hai câu thơ cuối thể hiện những chiêm nghiệm, suy nghĩ sâu sắc về cuộc đời, con người của tác giả:
Sấm cũng bớt bất ngờBên hàng cây đứng tuổi
Câu thơ vừa mang ý nghĩa tả thực lại vừa mang ý nghĩa biểu tượng. Trước hết về ý nghĩa tả thực: sấm là hiện tượng tự nhiên, thường là dấu hiệu của những cơn mưa rào mùa hạ. Sang thu tiếng sấm cũng trở nên nhỏ hơn, không còn đủ sức lay động những hàng cây đã trải qua bao mùa thay lá nữa.
Bên cạnh đó tiếng sấm còn để chỉ những biến động bất thường của cuộc đời, những gian nan, thử thách mà mỗi chúng ta phải trải qua. Tương ứng với nghĩa biểu tượng của “sấm” , “hàng cây đứng tuổi” là biểu trưng cho những con người trưởng thành, đã trải qua biết bao sóng gió, giông tố trong cuộc đời. Bởi vậy, dù có thêm những bất thường, biến động cũng không dễ dàng khiến họ lung lay, gục ngã; họ trở nên bình tĩnh, ung dung hơn trước những biến cố, thăng trầm của cuộc sống.
Bằng giác quan nhạy bén, Hữu Thỉnh đã xuất sắc ghi lại khoảnh khắc giao mùa của đất trời từ hạ sang thu. Tái hiện bức tranh đẹp đẽ nhiều hương sắc, nhiều phong vị rất đặc trưng của đất Bắc. Cùng với đó là thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, ngôn ngữ mộc mạc giản dị mà cũng vô cùng sâu sắc đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.
Bài tham khảo 2
'Sang thu' là bài thơ ngũ ngôn của Hữu Thỉnh, từng được nhiều người ưa thích. Bài thơ gồm có ba khổ thơ; mỗi khổ thơ bốn câu là một nét thu đẹp êm đềm của đất trời, tạo vật trong buổi đầu thu - thu mới về, thu chợt đến.
'Sang thu' thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đồng quê trên miền Bắc đất nước ta.
Với thi sĩ Xuân Diệu thì tín hiệu đầu thu là sắc 'mơ phai' của lá được bàn tay tạo hóa 'dệt' nên giữa muôn ngàn cây:
'Đây mùa thu tới, mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng.'
(Đây mùa thu tới)
Nhưng với Hữu Thỉnh là 'hương ổi' của vườn quê được ''phả vào' trong làn gió thu se lạnh. Cái hương vị nồng nàn ấy nơi vườn nhà mà tuổi thơ mỗi chúng ta sẽ mang theo mãi trong tâm hồn, đi suốt cuộc đời:
'Bỗng nhận ra hương ổiPhả vào trong gió dịu.'
'Phả' nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê). Hữu Thỉnh không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc những liên tưởng về màu vàng ươm, về hương thơm lừng, thơm ngát tỏa ra, bốc lên từ những trái ổi chín nơi vườn quê trong những ngày cuối hạ, đầu thu. Vì gió thu 'se' lạnh, nên hương ổi mới thêm nồng nàn phả vào đất trời và hồn người.
Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bằng Sơn, Nguyễn Đình Thi, ... đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước:
'Sáng mát trong như sáng năm xưaGió thổi mùa thu hương cốm mới...'
(Đất nước - Nguyễn Đình Thi)
'Hương ổi' trong bài 'Sang thu' là một cái mới trong thơ, đậm đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh.
Sau 'hương ổi' và 'gió se', nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là 'Sương thu lạnh... Khói thu xây thành' trong 'Cảm thu tiễn thu' của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: 'Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun' (Chinh phụ ngâm). Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng 'chùng chình' cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian:
'Sương chùng chình qua ngõHình như thu đã về.'
Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ 'chùng chình' diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu về. Nếu các từ ngữ 'bỗng nhận ra' biểu lộ cảm xúc ngạc nhiên thì hai chữ 'hình như' thể hiện sự phỏng đoán một nét thu mơ hồ vừa chợt phát hiện và cảm nhận.
Chữ 'se' vần với chữ 'về' (vần chân, vần bằng, vần cách) đã góp phần tạo nên sự phong phú về vần điệu và nhạc điệu, làm cho giọng thơ nhẹ nhàng, mênh mông gợi cảm.
Không gian nghệ thuật của bức tranh 'Sang thu' được mở rộng, ở chiều cao, độ rộng của bầu trời với cánh chim bay và đám mây trôi, ở chiều dài của dòng sông qua khổ thơ thứ hai tiếp theo:
'Sông được lúc dềnh dàngChim bắt đầu vội vãCó đám mây mùa hạVắt nửa mình sang thu.'
Sông mùa thu trên miền Bắc nước ta nước trong xanh, êm đềm trôi: 'Trắng xóa tràng giang, phẳng lặng tờ' ('Tức cảnh chiều thu' - Bà Huyện Thanh Quan). Sông nước đầy nên mới 'dềnh dàng', nhẹ trôi như cố tình chậm chạp, thiếu khẩn trương, để mất nhiều thì giờ... Chim bay 'vội vã', đó là những đàn cu ngói, những đàn sâm cầm, những đàn chim đổi mùa, tránh rét, từ phương Bắc xa xôi bay về phương Nam. Trong số đàn chim bay 'vội vã' ấy phải chăng có những đàn ngỗng trời mà nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nói tới trong 'Thu vịnh':
'Một tiếng trên không ngỗng nước nào?'
Dòng sông, cánh chim, đám mây mùa thu đều được nhân hóa. Bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Hữu Thỉnh không dùng những từ ngữ như: lang thang, lơ lửng, bồng bềnh, nhẹ trôi, ... mà lại dùng chữ vắt.
'Có đám mây mùa hạVắt nửa mình sang thu.'
Mây như kéo dài ra, vắt lên, đặt ngang trên bầu trời, buông thõng xuống. Câu thơ tả đám mây mùa thu của Hữu Thỉnh khá hay và độc đáo: cách chọn từ và dùng từ rất sáng tạo.
Khổ thơ cuối nói lên một vài cảm nhận và suy ngẫm của nhà thơ khi nhìn cảnh vật trong những ngày đầu thu:
'Vẫn còn bao nhiêu nắngĐã vơi dần cơn mưaSấm cũng bớt bất ngờTrên hàng cây đứng tuổi'
Nắng, mưa, sấm, những hiện tượng của thiên nhiên trong thời điểm giao mùa: mùa hạ - mùa thu được Hữu Thỉnh cảm nhận một cách tinh tế. Các từ ngữ: vẫn còn, đã vơi dần, cũng bớt bất ngờ, gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Mùa hạ như còn níu giữ. Nắng, mưa, sấm mùa hạ như còn vương vấn hàng cây và đất trời. Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. 'Sấm' và 'hàng cây đứng tuổi là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài 'Sang thu'. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. Hình ảnh 'hàng cây đứng tuổi' là một ẩn dụ nói về lớp người đã từng trải, được tôi luyện trong nhiều gian khổ, khó khăn:
'Sấm cũng bớt bất ngờTrên hàng cây đứng tuổi'
Hữu Thỉnh viết bài thơ 'Sang thu' vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy.
'Sang thu' là một bài thơ hay của Hữu Thỉnh, được in trong tập thơ 'Từ chiến hào tới thành phố' xuất bản vào tháng 5/1985. Bao cảm xúc dâng đầy trong những vần thơ đẹp, hữu tình, nên thơ. Nhà thơ không sử dụng bút màu để vẽ nên những cảnh thu, sắc thu rực rỡ. Chỉ là một số nét chấm phá, tả ít mà gợi nhiều nhưng tác giả đã làm hiện lên cái hồn thu thanh nhẹ, trong sáng, êm đềm, mênh mang... đầy thi vị.
Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong 'Sang thu'. Thơ ngũ ngôn trong 'Sang thu' thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, lắng đọng và hồn nhiên. 'Sang thu' là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm, báo mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha.