Tác giả tác phẩm Bài ca ngất ngưởng (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Bài ca ngất ngưởng Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Bài ca ngất ngưởng - Ngữ văn 11
I. Tác giả Nguyễn Công Trứ
- Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu Hi Văn
- Là người có tài năng và nhiệt huyết trên nhiều lĩnh vực từ văn hóa, kinh tế đến chính trị, quân sự. Thế nhưng con đường làm quan lại trắc trở, gập ghềnh, thăng giáng thất thường
- Là người ưa tự do, phóng túng, có cá tính có bản lĩnh, ngông ngạo
- Là người yêu nước thương dân có nhiều đóng góp cho đất nước
- Các tác phẩm chính:
+ Các sáng tác chủ yếu bằng chữ Nôm với nhiều thể loại thơ, phú, câu đối, hát nói
+ Riêng thơ Đường luật có khoảng 150 bài
- Đặc điểm sáng tác:
+ Tập trung vào ba chủ đề chính: chí nam nhi, triết lí sống nhàn, thế thái nhân tình đen bạc
+ Nguyễn Công Trứ là người đầu tiên có công đưa hát nói trở thành thể loại văn học dân tộc
⇒ Cùng với Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ là một trong hai thi sĩ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ 19
II. Đọc tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên
Độ môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
III. Tìm hiểu tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
1. Thể loại
Văn bản thuộc thể loại ca trù
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ được viết sau năm 1848, khi tác giả cáo quan về ở ẩn
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản có phương thức biểu đạt là biểu cảm
4. Ý nghĩa nhan đề
- Từ ngất ngưởng: thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngã, tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.
⇨ Thể hiện cái dáng vẻ của một tinh thần ngạo nghễ, tự coi mình, hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là tư thế chung của toàn bài. Từ đó khẳng định cách sống tự do của bậc tài tử phong lưu, không ngần ngại khẳng định cá tính của mình. Thái độ sống ngất ngưỡng đầy thách thức trước những tôn ti phép tắc khắc kỉ của xã hội phong kiến.
5. Bố cục
- Phần 1 (6 câu đầu): Ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp
- Phần 2 (12 câu tiếp): Ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ
- Phần 3 (còn lại) : Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch
6. Giá trị nội dung
Bài thơ khẳng định ngất ngưởng là cách Nguyễn Công Trứ thể hiện bản lĩnh cá nhân trong cuộc sống
7. Giá trị nghệ thuật
- Cách gieo vần, các câu thơ thuần Hán , thuần Việt được đan cài vào nhau tạo nên nhịp điệu câu thơ
- Số âm tiết qua cách nói cách hát thể hiện sự phóng khoáng của cá nhân, nghệ thuật điệp từ
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Bài ca ngất ngưởng
1. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ
- Từ “Ngất ngưởng” xuất hiện 4 lần trong bài thơ ở các câu: 4, 8, 12 và câu cuối.
- “Ngất ngưởng” diễn tả một con người, sự vật có chiều cao hơn so với con người và sự vật khác nhưng ngả nghiêng, chực đổ mà không đổ.
-> Đây là trạng thái gây cảm giác rất khó chịu cho người xung quanh, như trêu trọc, trêu ngươi.
- Là khác người, xem mình cao hơn người khác.
- Là thoải mái tự do, phóng túng, không theo một khuôn khổ nào hết.
*Từ “Ngất ngưởng” thứ nhất gắn liền với những năm ra làm quan. Đó là cái “Ngất ngưởng” ở chốn quan trường. (6 câu đầu)
*Từ “Ngất ngưởng” thứ hai, ba gắn liền với những năm cáo quan về hưu. Đó là cái “Ngất ngưởng ở chốn hành lạc. (12 câu tiếp).
* Từ “Ngất ngưởng” thứ tư trở lại quãng đời làm quan. Nhưng đây là cái “Ngất ngưởng” ở chốn triều chung. (Câu cuối).
=> Phẩm chất sống tự do, phóng khoáng, vượt lên trên những trói buộc của cuộc sống đời thường ở nhà thơ.
2. Lời tự thuật về cuộc đời
a. Khi làm quan (6 câu đầu)
- Câu 1:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
Mọi việc trong trời đất đều là phận sự của ta: Phẩm chất tự tin, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm và tài năng của bản thân.
- Câu 2:
“Ông Hi văn tài bộ đã vào lồng”
-> Tuy cho việc làm quan là mất tự do, là “vào lồng” song vẫn ra làm quan vì đó là phương tiện để ông thể hiện tài năng và hoài bão của mình, một sự dấn thân tự nguyện.
- Câu 3, 4, 5, 6: Liệt kê tài năng hơn người:
+ Giỏi văn chương (khi thủ khoa)
+ Tài dùng binh (thao lược)
-> Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn
- Khoe danh vị hơn người:
+ Tham tán
+ Tổng đốc
+ Đại tướng (bình định Trấn Tây)
+ Phủ doãn Thừa Thiên
- Thực tế đã cho thấy ông là người có tài năng xuất chúng, tận tâm với sự nghiệp và lập nhiều công trạng, thể hiện tài “kinh bang tế thế”.
- Đường công danh khi thăng lúc giáng, nhưng khi nhìn lại ông không hề che giấu niềm tự hào, kiêu hãnh về tài năng và vì đã cống hiến hết mình.
- Nghệ thuật
+ Sử dụng nhiều từ Hán Việt mang màu sắc trang trọng.
+ Thủ pháp NT: điệp từ kết hợp liệt kê vừa có tác dụng khoe tài, vừa nhấn mạnh các chức danh đã từng trải qua -> Thể hiện một ý thức rõ nét, trang trọng về tài năng và địa vị của bản thân.
+ Giọng điệu: lúc khoe khoang, phô trương; lúc tự cao tự đại, khinh đời.
=> 'Ngất ngưởng' trên hành trình hoạn lộ: người quân tử sống bản lĩnh, đầy tự tin, kiên trì lí tưởng.
b. Lúc về hưu (12 câu tiếp)
* Sự kiện về hưu:
- Mở ra bằng câu thơ nguyên văn chữ Hán → sự kiện quan trọng.
“Đô môn giải tổ chi niên”
-> Nhắc lại một sự kiện quan trọng trong cuộc đời (về hưu), điều kiện để ông thực hiện lối sống ngất ngưởng.
* Những hành động ngất ngưởng:
- “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”
-> Dạo chơi bằng cách cưỡi con bò vàng, đeo nhạc ngựa trước ngực nó, đeo mo cau sau đuôi, bảo rằng để che miệng thế gian.
+ “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”
->Thưởng thức cảnh đẹp, ngao du sơn thủy.
+ “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”
-> Cười mình là tay kiếm cung (một ông tướng có quyền sinh quyền sát) dạng từ bi: dáng vẻ tu hành, trái hẳn với trước.
+ “Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”
-> Dẫn các cô gái trẻ lên chơi chùa, đi hát ả đào.
+ Chứng kiến cảnh ấy
“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
-> Một cá tính nghệ sĩ: Sống phóng túng, tự do, thích gì làm nấy, sống theo cách của mình, nhanh chóng thích nghi hoàn cảnh.
- Quan niệm sống:
+ Câu 13: Vượt qua dư luận xã hội, không quan tâm được mất.
+ Câu 14: không bận lòng trước những lời khen chê.
+ Câu 15, 16: Sống tự do, phóng túng, tận hưởng mọi thú vui, không vướng tục.
⭢ Một nhân cách, một bản lĩnh ngất ngưởng: sống không giống ai, không nhập tục cũng không thoát tục.
- Câu 17, 18: Cá tính và bản lĩnh
+ So sánh mình với các bậc anh tài
+ Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành
+ Ý thức về bản lĩnh, tài năng và phẩm chất.
- Nghệ thuật
+ Sử dụng nhiều từ Hán Việt mang màu sắc trang trọng.
+ Hình ảnh: đối lập-> trái khoái, ngược đời
+ Thủ pháp NT: liệt kê
+ Giọng điệu: hài hước, hóm hỉnh.
+ Nhịp điệu: khoan thai, không gò bó về niêm luật, số câu, số chữ.
-> Thể hiện lối sống tự do, tự tại, phóng túng, hào hoa.
=> 'Ngất ngưởng' khi cáo quan về hưu: bậc tài tử phong lưu, không ngần ngại khẳng định cá tính của mình.
c. Ngất ngưởng ở chốn triều cung:
- Câu cuối: vừa hỏi vừa khẳng định: mình là một đại thần trong triều, không có ai sống ngất ngưởng như ông cả.
- Nêu bật sự khác biệt của mình so với đám quan lại khác: cống hiến, nhiệt huyết.
- Ý thức muốn vượt ra khỏi quan niệm “đạo đức” của nhà nho.
- Thể hiện tấm lòng sắt son, trước sau như một đối với dân, với nước.
-> Ngất ngưởng nhưng phải có thực tài, thực danh.
3. Khẳng định phong cách sống
- Khi làm quan, ông không chấp nhận sự khom lưng uốn gối hay thói quỵ lụy.
- Khẳng định tấm lòng trung quân, ái quốc bằng tài năng và sự cống hiến hết mình cho xã hội, cho triều đại.
- Không chấp nhận uốn mình theo lễ giáo Nho giáo, mà thuận theo sự tôn trọng cá tính, sự trung thực và cũng là dám sống cho mình.
=> Vẻ đẹp nhân cách của NCT: Một con người giàu năng lực, dám sống cho mình, bỏ qua sự gò bó của lễ giáo phong kiến, theo đuổi cái tâm tự nhiên.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Bài ca nhất ngưởng
Bài tham khảo 1
Khi đã nghỉ hưu ở quê nhà. Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách sống của ông. Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt thế tục bình thường!
Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng nhà Nho: Phận sự của kẻ sĩ là phải coi việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình.
Nhà thơ tự xưng minh là ông – ông Hi Văn – đã lần lượt làm các việc: thi đỗ Thủ khoa, khi làm Tham Tán Quân vụ Bộ hình, khi làm Tổng Đốc An Hải, lúc làm Đại Tướng Bình Tây, lúc làm Phu Doãn Thừa Thiên, nhưng ông không ở lâu chức vụ nào vì luôn luôn bị giáng chức.
Sự nghiệp như thế thật không hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai: Mặc dầu trên đường công danh có những lúc thăng trầm, nhưng cuối cùng ông cũng được ở phẩm tước khá cao dù cái xã hội ấy ông gọi là cái “lồng”.
Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820 đến năm 1848, ông đã tự chứng tỏ cái tài song toàn về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không che giấu khi tự thuật về mình: Một tay ngất ngưởng trên hoạn lộ:
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!
Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão về hưu.
Quãng đời sau cùng của đời Nguyễn Công Trứ là quãng đời không màng danh lợi, hoàn toàn hưởng nhàn theo sở thích cá nhân. Với một tâm hồn tự do và một cuộc sống độc lập, ông đã tha hồ ngất ngưởng cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa tiêu dao đây đó khi chùa, khi núi, lại đèo theo đủng đỉnh một đôi dì. Cách hưởng nhàn hành lạc của ông ở đây thật đến quá quắt, mà có lẽ khôi hài lập dị của một trang nam tử có một thị hiếu riêng, đến nỗi:
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
Lối hưởng lạc này có một sinh khí và một tính chái riêng đó là lối hưởng lạc nhập tục theo chiều phóng khoáng cá nhân, không giống một ai, không Tiên không Phật cũng không tục, nhưng vẫn trọn nghĩa vua tôi:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng Không Phật, không Tiên, không vướng tục
Hường nhàn hành lạc chỉ là thời lò sau cùng của ông khi làm xong phận sự. Ông muốn mọi người hiểu rằng cuộc đời là trung nghĩa. Biết bao lần lên bổng xuống trầm trên hoạn lộ, vì ganh ghét, vì vu cáo, thế mà vẫn giữ vững đức trung quân, ái quốc không hề có một ý tưởng bất mãn.
Bởi vậy khi về hưu vui thú tuổi già, ông sống với một cõi lòng yên vui bình thản, trên không lỗi với vua, dưới không mất lòng dân chúng. Cho nên khi Tiền Hải, Kim Sơn, lúc chống gậy đến chọn triều đình nghị quốc quân đại sự. Năm Tự Đức thứ 12, ông nghe tin liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công cửa bể Đà Nẵng, không quản ngại thân già, ông chống gậy đến chốn triều đình dâng sớ lên vua xin cầm quân chống giặc. Nhưng vua không cho vì thấy ông đã quá già nua tuổi tác.
Tự xét hiểu mình như thế, nên ông kiêu hãnh ghi nhận về mình:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Phải chăng đó là lối sống mang cái “chí khí” “ngất ngưởng”. Chẳng những ông không hề sợ ai chê cười mà còn đầy lòng tự hào về cái 'đạo sống ngất ngưởng” đó. Tóm tắt lại có bốn cái 'ngất, ngưởng” nổi bật trong đời ông:
– Gồm thao lược đã liên tay ngất ngưởng!
– Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng!'
– Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
– Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Bài tham khảo 2
Tác giả Nguyễn Công Trứ là cái tên thân thuộc gần gũi với người dân Việt Nam nhắc đến người ta cảm nhận sự trân trọng về công lao khai phá ra vùng đất đai vô cùng trù phú của nước ta Tiền Hải (Thái Bình) và vùng Ninh Bình.
Nguyễn Công Trứ là một tác giả tài hoa, một nhân cách lớn của nền thi ca Việt Nam khẳng định được chính bản ngã của bản thân mình, để từ đó làm nên một nhân cách lớn, bản lĩnh sống.
Bài ca ngất ngưởng là một bài thơ thể hiện bản lĩnh của Nguyễn Công Trứ không trộn lẫn vào đâu.
Nhan đề của bài thơ cũng thể hiện sự không vững chắc, sự ngả nghiêng như muốn ngã. Tuy nhiên, hai chữ ngất ngưởng bài thơ này thể hiện được sử dụng như thể hiện được thái độ sống, ở đây ngất ngưởng cần hiểu thái độ kiên cường, quan niệm sống.
Có như vậy chúng ta mới hiểu được con người của tác giả Nguyễn Công Trứ một con người có phong cách sống khá bản lĩnh, khác người bất chấp lối sống được khẳng định bằng tài năng vô cùng xuất chúng của tác giả.
Toàn bộ nội dung bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa hay lý giải về sự ngất ngưởng của bản thân tác giả, mà còn được xem một lời tự thuật của chính tác giả về cuộc sống, là niềm tự hào, thể hiện bản lĩnh có tiền tài công danh, thể hiện phong cách sống tài tử, thể hiện cá tính phóng khoáng của tác giả Nguyễn Công Trứ.
Những lời thơ ban đầu thể hiện quan niệm cuộc sống, bản lĩnh của một người con trai muốn thể hiện bản lĩnh của mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).
Câu thơ thể hiện sự chắc nịch khẳng định một cách mạnh mẽ, hào hùng quan niệm của người con trai, người có tư tưởng lớn của Nguyễn Công Trứ. Thông qua quan niệm này cho thấy tác giả luôn luôn ý thức được trách nhiệm của bản thân mình, luôn muốn xác định được vai trò và ý nghĩa của mình trong cuộc sống này.
Những tuyên ngôn sống của Nguyễn Công Trứ được khẳng định như một lời khẳng định, thể hiện bản lĩnh của người con trai, là một điều vô cùng quen thuộc trong thơ của tác giả Nguyễn Công Trứ
Nói như vậy người đọc có thể khẳng định rằng Nguyễn Công Trứ luôn xác định một quan niệm sống vô cùng sống tích cực, quan niệm sống lạc quan, đồng thời thể hiện ý thức của bản thân mình một cách rõ ràng.
Chính vì luôn ý thức về ý chí của mình trong trời đất mà tác giả Nguyễn Công Trứ không ngại ngần thể hiện rõ chí hướng làm trai của mình.
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồngKhi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc ĐôngGồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Câu được ngắt nhịp đều đặn, chậm rãi cùng với sự nghiệp sử dụng từ khi tạo nên lối sống riêng của mình khẳng định tâm lý vô cùng tự hào
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Trong những câu thơ ngày người đọc có thể hiểu được khẳng định một người có tài năng thực sự thể hiện ý thức về tài năng ủa chính bản thân của tác giả.
Trong những câu thơ này thể hiện bản ngã của tác giả Nguyễn Công Trứ là một trong những phẩm chất mà ông tự hào đó chính là sự ngất ngưởng.
Đô môn giải tổ chi niênĐạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.Kìa núi nọ phau phau mây trắngTay kiếm cung mà nên dạng từ biGót tiên theo đủng đinh một đôi dìBụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Là một nhà nho sĩ từng là một danh tướng xông pha đánh trận cuộc sống bình dị. Tuy nhiên cái cuộc lối sống ấy đơn giản.
Được mất dương dương người thái thượngKhen chê phơi phới ngọn đông phong
Với tác giả Nguyễn Công Trứ thoát khỏi những vòng danh lợi, bỏ qua những lời khen chê ở đời đó chính là cái ngất ngưởng của tác giả Nguyễn Công Trứ.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùngKhông Phật, không Tiên, không vướng tục.Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, PhúNghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chungTrong triều ai ngất ngưởng như ông!
Nguyễn Công Trứ đã khẳng định mình là con người trung thành, có đạo nghĩa với nhà vua thể hiện việc vua tôi rõ ràng, khẳng định quan niệm sống làm trai của tác giả ở những câu thơ đầu của tác giả. Bằng lối so sánh vô cùng độc đáo tác giả cũng nói vẻ đầy tự hào, để khẳng định lý tưởng sống của mình.Nguyễn Công Trứ có được điều đó xuất phát từ sự tài năng có danh tiếng của bản thân từ sự tròn bổn phận, thể hiện bản lĩnh dám sống ở đời một phong cách sống tài tử. Cùng với những bài thơ khác như Chí làm trai, Nợ tang bồng… bài ca ngất ngưởng thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà thơ Nguyễn Công Trứ.