Tác giả tác phẩm Trao duyên (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Trao duyên Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Trao duyên - Ngữ văn 11
I. Tác giả Nguyễn Du
1. Tiểu sử
- Nguyễn Du (1765 – 1820) tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
* Thời đại:
- Đầy biến động: giang sơn mấy lần đổi chủ.
- Chế độ phong kiến suy tàn, phong trào khởi nghĩa nông dân nổi lên khắp nơi.
→ Suy ngẫm về cuộc đời và thế thái nhân sinh.
* Quê hương – gia đình:
- Quê hương:
+ Quê cha: Hà Tĩnh → giàu truyền thống văn hóa, hiếu học.
+ Quê mẹ: Bắc Ninh – cái nôi của dân ca quan họ.
+ Nguyễn Du sống chủ yếu ở Thăng Long → Mảnh đất nghìn năm văn hiến.
+ Quê vợ: Thái Bình, nhiều truyền thống văn hóa.
→ Tiếp nhận văn hóa nhiều vùng miền tạo tiền đề cho sự tổng hợp tài năng nghệ thuật.
- Gia đình:
+ Sinh ra và trưởng thành trong gia đình quý tộc phong kiến quyền quý:
> Cha: Nguyễn Nghiễm, từng làm Tể Tướng trong triều Lê.
> Anh là Nguyễn Khản, làm chức Tham tụng (ngang Thừa tướng) trong phủ chúa Trịnh.
→ Có điều kiện dùi mài kinh sử và am hiểu vốn văn hóa văn học bác học.
+ Mẹ: Trần Thị Tần: quê ở Bắc Ninh, thông minh xinh đẹp, nết na.
→ Hiểu biết về văn hóa dân gian.
→ Gia đình nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học, thích hát xướng.
* Bản thân:
- Thời thơ ấu và thanh niên (1765 – 1789): Sống sung túc, hào hoa ở kinh thành Thăng Long trong gia đình quyền quý → Là điều kiện để có những hiểu biết về cuộc sống ông phong lưu của giới quý tộc phong kiến.
- Mười năm gió bụi (1789 – 1802): Sống cuộc đời nghèo khổ, phong trần, gió bụi
→ Đem lại cho Nguyễn Du vốn sống thực tế gần gũi với quần chúng, học tập ngôn ngữ dân tộc và thôi thúc ông suy ngẫm về cuộc đời con người.
- Từ khi ra làm quan triều Nguyễn (1802 – 1820): Giữ nhiều chức vụ cao, được đi nhiều nơi, được cử làm chánh sứ sang Trung Quốc. → Giúp ông mở mang, nâng tầm khái quát về xã hội, con người.
- Ông mất tại Huế 1820.
→ Tiểu kết: Cuộc đời Nguyễn Du trải qua nhiều biến cố thăng trầm nhưng chính hoàn cảnh ấy tạo cho ông vốn sống phong phú, tâm hồn sâu sắc.
2. Sự nghiệp sáng tác
a. Tác phẩm chính
* Sáng tác bằng chữ Hán: Còn khoảng 249 bài
- Thanh Hiên thi tập (78 bài), sáng tác ở Thái Bình và Tiên Điền.
- Nam Trung tạp ngâm (40 bài), sáng tác khi làm quan ở Quảng Bình.
- Bắc Hành tạp lục (131 bài), sáng tác khi đi sứ ở Trung Quốc.
* Sáng tác bằng chữ Nôm:
- Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều);
- Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh);
b. Một vài đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Du
* Đặc điểm nội dung:
- Đề cao xúc cảm (tình).
+ Thể hiện tình cảm chân thành, cảm thông sâu sắc của tác giả đối với cuộc sống và con người, đặc biệt là những con người bé nhỏ, những số phận bất hạnh, những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh (Thuý Kiều, Đạm Tiên...).
+ Triết lí về thân phận bất hạnh của phụ nữ trong xã hội cũ, đề cập đến vấn đề thân phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh.
+ Khái quát bản chất tàn bạo của chế độ phong kiến chà đạp quyền sống của con người.
+ Đề cao quyền sống của con người, đồng cảm và ca ngợi tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc (mối tình Kim- Kiều, nhân vật Từ Hải).
+ Bài ca tình yêu tự do và ước mơ công lí.
+ Tiếng khóc cho số phận con người: khóc cho tình yêu trong trắng, chân thành bị tan vỡ; khóc cho tình cốt nhục bị lìa tan; khóc cho nhân phẩm bị chà đạp; khóc cho thân xác con người bị đày đoạ.
+ Bản cáo trạng đanh thép: tố cáo thế lực đen tối trong xã hội phong kiến, phanh phui sức mạnh làm tha hoá con người của đồng tiền.
* Đặc điểm nghệ thuật:
- Thành công trong nhiều thể loại: ngũ ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật và ca, hành.
- Thơ lục bát, song thất lục bát đạt đến đỉnh cao.
- Vận dụng thành công các điển cố, điển tích trong văn học Trung Hoa, Việt hoá nhiều ngôn ngữ Hán.
→ Nguyễn Du đã góp phần trau dồi ngôn ngữ văn học dân gian, làm giàu cho tiếng Việt.
II. Đọc tác phẩm Trao duyên
“... Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan.
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân !
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !
Phận sao phận bạc như với !
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.
Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang !
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”
III. Tác phẩm Trao duyên
1. Tìm hiểu chung
a. Truyện Kiều
* Nguồn gốc: Từ cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
* Giá trị nội dung:
- Tiếng khóc cho số phận con người: khóc cho tình yêu trong sáng, khóc cho nhân phẩm bị chà đạp...
- Lời tố cáo mạnh mẽ, đanh thép: Tố cáo thế lực đen tối của xã hội phong kiến, kẻ chà đạp lên quyền sống của con người.
- Bài ca tình yêu tự do và ước mơ công lý.
* Giá trị nghệ thuật:
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Nghệ thuật kể chuyện.
- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ.
b. Vị trí, xuất xứ đoạn trích
- Gia đình gặp tai biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Trước khi theo Mã Giám Sinh. Kiều đã nhờ Vân “trả nghĩa” cho Kim Trọng.
- Đoạn trích thuộc phần 2 - Gia biến và lưu lạc (từ câu 723 đến câu 756).
c. Bố cục tác phẩm Trao duyên
+ 12 câu đầu: Lời nhờ cậy và thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân của Thúy Kiều.
+ 14 câu tiếp: Thúy Kiều trao kỉ vật và dặn em.
+ 8 câu cuối: Thúy Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho Kim Trọng.
d. Giá trị nội dung tác phẩm Trao duyên
Là lời nhờ cậy, giãi bày, thuyết phục của Thúy Kiều với Thúy Vân trước một sự việc hệ trọng mà nàng sắp thực hiện.
e. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Trao duyên
- Ngôn ngữ: kết hợp hài hòa giữa cách nói trang trọng, văn hoa và giản dị, nôm na của cách nói dân gian.
- Sử dụng các điển tích đi đôi với các thành ngữ: 'tình máu mủ', 'lời nước non', 'thịt nát xương mòn', 'ngậm cười chín suối'…
→ Sự chính xác, tinh tế trong cách sử dụng ngôn từ và xây dựng hình tượng nhân vật của Nguyễn Du.
f. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề đoạn trích do người biên soạn SGK là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, Trao duyên, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.
2. Tìm hiểu chi tiết
a. 12 câu thơ đầu: Lời nhờ cậy và thuyết phục trao duyên cho Thúy Vân của Thúy Kiều
* 2 câu đầu: Lời nhờ cậy
- Lời nói:
Từ tác giả sử dụng
Từ có thể thay thế
'Cậy': thanh trắc tạo âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, vật vã trong nội tâm của Thúy Kiều.
- Là nhờ vả, trông mong tin tưởng, gửi gắm niềm hi vọng thiết tha.
'Nhờ': thanh bằng làm giảm phần nào cái quằn quại, đau đớn, khó nói của Kiều.
'Chịu': nài ép phải nhận lời.
'Nhận': có phần nào tự nguyện.
- Hành động:
+“Lạy”: trang nghiêm, hệ trọng.
+“Thưa”: kính cẩn, trang trọng với bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
→ Lời nhờ cậy chứng tỏ:
+ Việc Kiều nhờ em rất thiêng liêng.
+ Kiều đặt Vân vào hoàn cảnh không thể từ chối.
+ Kiều đang trong một hoàn cảnh đặc biệt khác thường, nài ép Vân phải nhận.
* 10 câu thơ tiếp: Lí lẽ thuyết phục Thúy Vân
- 4 câu thơ tiếp: Kể về mối tình với chàng Kim
+ “đứt gánh tương tư”: mối tình dở dang, đứt quãng.
+ “mối tơ thừa”: mối tình duyên Kim - Kiều; “chắp mối”: Thúy Vân là người nhận lại mối tình dang dở.
+ “Quạt ước, chén thề”: Là một điển tích gợi hình ảnh hai người tặng nhau quạt để tỏ ý trăm năm, uống rượu cùng nhau để thề nguyền chung thủy.
→ Bằng những thành ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh, điệp từ “khi” đã vẽ nên một mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều.
- 6 câu thơ sau: Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em
+ Gia đình gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”.
→ Kiều buộc phải chọn 1 trong 2 con đường là “hiếu” và “tình”. Cuối cùng, nàng đành chọn hi sinh tình → Kiều đã gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu.
+ “Ngày xuân em hãy còn dài” → Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước.
+ “Xót tình máu mủ thay lời nước non”
→ Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
+ Thành ngữ “Thịt nát xương mòn” và “ngậm cười chín suối”: Kiều tưởng tượng đến cái chết của mình → gợi sự thương cảm ở Thúy Vân.
→ Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình.
→ Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, khéo léo, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
b. 14 câu thơ tiếp (từ câu 13 đến câu 26): Thúy Kiều khi trao kỉ vật và dặn dò em
* 6 câu thơ đầu (từ câu 13 đến câu 18).
- Trao kỉ vật: “Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền”
→ Những kỉ vật thiêng liêng của Kiều với Kim Trọng.
- Lời dặn dò 1: “Duyên này thì giữ” >< “vật này của chung”:
+ “Duyên này”: tình riêng của Kiều với Kim Trọng.
+ “Của chung” → của Kim, Kiều → nay còn là của Vân.
→ Tâm trạng Kiều đầy mâu thuẫn: lí trí >< tình cảm, hành động >< lời nói.
Vì: Kiều đang phải chia li, vĩnh biệt mối tình đầu tươi đẹp nên đang nuối tiếc về mối tình đầu dang dở.
+ “Của tin”: phím đàn, mảnh hương nguyền → những kỉ vật gắn bó, chứng giám tình yêu của Kim - Kiều trong đêm trăng thề nguyền. → “của tin” – tình cảm thiêng liêng mà nàng giữ lại cho mình.
→ Trao duyên chỉ là hình thức.
* 8 câu thơ tiếp (từ câu 19 đến câu 26)
- Lời dặn dò 2:
+ Từ ngữ giả định: “mai sau”, “dù có”.
→ Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai.
+ Hình ảnh: “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”… => nhắc nhiều đến cái chết.
→ Kiều coi mình như đã chết. Kiều vẫn đang nuối tiếc, xót xa những kỉ niệm hạnh phúc, vẫn hi vọng mong manh về sự sum họp.
→ Tình cảm của Kiều dành cho Kim Trọng rất sâu sắc và mãnh liệt.
c. 8 câu thơ cuối ( từ câu 27 đến câu 34): Thúy Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn nhủ cho Kim Trọng
- Hiện tại: 'trâm gãy gương tan', 'tơ duyên ngắn ngủi', 'phận bạc như vôi', 'nước chảy hoa trôi': đau xót, tan vỡ, cay đắng.
- Quá khứ: 'muôn vàn ái ân': hạnh phúc, tươi đẹp.
→ Hình dung về quá khứ tươi đẹp, Kiều càng đau đớn, tuyệt vọng
- “Phụ chàng”: Kiều tạ lỗi, nhận hết phần lỗi về mình → Nàng là người có đức hi sinh cao cả và giàu lòng vị tha.
- Điệp từ: “Kim lang”: Kim Trọng
+ Đoạn đầu: gọi Kim Trọng là “chàng” – người yêu
+ Ở đây: gọi 'Kim lang” – chồng: Kiều đã thực sự nên duyên phận với Kim Trọng bằng tình yêu mãnh liệt.
→ Diễn tả tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều.
IV. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Trao duyên
Bài tham khảo 1
Duyên phận là của trời cho, không được cưỡng cầu và càng không nên ép buộc, nhờ vả. Thế nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên” (Truyện Kiều) của Nguyễn Du đã cho mình cái đặc quyền đị “nhờ”, “cậy” duyên như vậy. Tác giả đã phân tích thành công tâm trạng chua xót, đầy đơn đau của Thúy Kiều khi phải trao mối duyên đầu với Kim Trọng cho em gái là Thúy Vân. Một nghịch cảnh trớ trêu, bất hạnh.
Đã gọi là duyên thì đến rất tự nhiên, đi tìm cũng không được, duyên đến thì giữ, duyên đi thì buông tay. Đó là duyên phận của mỗi người, mỗi cuộc đời khi gặp gỡ nhau. Trong tình yêu thì chữ ‘duyên” này càng lớn lao và quan trọng. Nhưng Thúy Kiều trong đoạn trích “Trao duyên” đã phải mang chữ duyên của mình gởi nhờ một người khác.
Nguyễn Du đã chua xót khi khắc họa tâm trạng của Thúy Kiều lúc này:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Chỉ với hai câu thơ nhưng biết bao chua xót và dằn vặt, biết bao nước mắt và đau đớn. Từ “cậy” được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chi, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.
Thúy Kiều bắt đầu giãi bày nỗi lòng của mình bằng những câu thơ như dao cắt:
Giữa đường dứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây thì người đọc đã thực sự hiểu hết ý nghĩa của từ ‘cậy”, nó không còn là nhờ nữa mà mang tính chất ép buôc, bắt buộc phải làm. Thúy Kiều hiểu được hoàn cảnh, hiểu được nỗi đau của bản thân mình. Nàng đã hi sinh chữ tình vì chữ hiếu, quyết phụ chàng Kim, chứ không thể phụ cha mẹ. Một người con gái yếu đuối, mỏng mang nhưng rất mực hiếu thảo. “Gánh tương tư” đã đứt gánh, mối duyên đã vỡ, nhưng Kiều không muốn chàng Kim đau lòng, nàng chỉ mong Thúy Vân có thể nối lại mối duyên này. Mặc dù “trao duyên” cho em gái nhưng lòng nàng đau như cắt. Những hẹn ước, những mong chờ, những kỉ niệm cứ như xát muối vào trong trái tim người con gái mỏng manh ấy.
Thúy Kiều đã rất khéo léo khi ‘cậy” duyên em gái, đã đem chuyện mãu mủ để ép Thúy Vân nên Thúy Vân không thể từ chối được:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Thúy Kiều và Thúy vân đều đang “đến tuổi cập kề’ nhưng nàng lại nhắn nhủ với Thúy Vân “ngày xuân em còn dài”, có thể gánh tiếp mối duyên với chàng Kim, với người mà Kiều yêu thương. Một sự chua xót đến đau lòng khi Kiều nhắc đến cái chết, một dự liệu chẳng lành hay là một cuộc đời sẽ chẳng bình an mà nàng sắp phải mang. Thúy vân có thể giúp đỡ thì dù mai này có chết Kiều vẫn “ngậm cười chín suối”. Qua đây chúng ta thấy được tấm lòng, sự lương thiện, sống và yêu hết lòng mình.
“Trao” đi mối duyên mà bản thân nâng niu, trân trọng là điều đau đớn, chua xót mà Kiều phải gánh chịu. Nhưng đây là con đường Kiều phải chọn để di, vì không còn lựa chọn nào khác nữa. Kiều mong em gái có thể giữ lấy mối duyên mà cô phải buông bỏ, để không phụ tấm lòng của Kim Trọng.
Và dường như cái chết càng hiển rõ nét trong những lời nói của Kiều:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đèn nghì trúc mai
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rảy xin chén nước cho người thác oan.
Sống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ có sát khí mạnh, cứa vào lòng người đọc một nỗi đau tận trái tim. Thương cho cô gái yếu đuối, với trái tim yêu chân thành nhưng lại rơi vào bế tắc cùng cực như vậy.
Đoạn trích “Trao duyên” thực sự khiến người đọc không kìm được cảm xúc khi nghĩ đến thân phận và nỗi đau mà người con gái hiếu thảo ấy phải gánh chịu. Xã hội bất công, lòng người bạc bẽo đã đẩy những phận người thấp cổ bé họng vào con đường không lối. Thúy Kiều và mối tình đứt gánh ấy là minh chứng cho điều đó.
Bài tham khảo 2
“Truyện Kiều” là thiên truyện nói về nỗi đau của con người trong một chế độ đầy rẫy bất công. “Truyện Kiều” là bức tranh diễn tả tâm trạng của con người – nói rõ hơn và cụ thể hơn, của nàng Kiều trong chế độ ấy. “Trao duyên” là đoạn u thảm khốc và lâm ly nhất trong thiên truyện bằng thơ này. Mười lăm năm lưu lạc Kiều có biết bao nhiêu là nỗi đau: phải bán mình chuộc cha, phải quằn quại trong nhơ nhuốc lầu xanh, bị Hoạn thư đánh ghen, mất Từ Hải, bị ép lấy Thổ Quan… “Trao duyên” là nỗi đau đớn và nỗi mở đầu. Mối duyên tình say đắm, mối tình đầu đẹp đẽ và thơ mộng, lời “hẹn ngọc thề vàng” với Kim Trọng diễn ra chưa bao lâu , nay với quyết định “bán mình chuộc cha”; Kiều đã tự “sám hối” cho tình duyên của mình. Nàng đơn lẻ đau khổ giữa đêm khuya, tự khóc than cho phận bạc của mình, phải đấu tranh trao cái tình duyên cho e là Thúy Vân.
Cuộc “Trao duyên” này có ai ép buộc không? Hoàn toàn không? Cuộc “trao duyên” hoàn toàn do Kiều tự nguyện. Thế thì làm sao Kiều phải day dứt, đau khổ nhất là khi nàng đã dứt khoát chọn chữ hiếu và hy sinh cho tình yêu? Cái thật trong miêu tả tâm lý nàng Kiều thông qua bộc lộ tâm trạng của Nguyễn Du là ở chỗ ấy. Thúy Kiều đáng thương, đáng trân trọng cũng là chỗ ấy.
Chúng ta biết rằng: Thúy Kiều là một người con gái đa tài, đa sắc, đa tình, đa cảm. Tài sắc của Kiều, đức hạnh của Kiều, hoàn cảnh sống của Kiều trong một gia đình “thường thường bậc trung” trong xã hội phong kiến có thể cho phép nàng sống một cuộc sống hạnh phúc, một cuộc sống cho mình và cho tình yêu của mình. Nhưng vốn là một người con gái đức hạnh, nàng không thể làm ngơ trước tai biến gia đình. Nàng đã quyết định hy sinh tình yêu để “bán mình chuộc cha”. Hành động ấy là một sự hy sinh hết sức to lớn, nàng đã dứt khoát và không còn băn khoăn nữa, một khi nàng đã hiểu:
“Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.
Và khi định “Trao duyên” cho e là Thúy Vân, nàng đã nghĩ đến em:
“Ngày xuân em hãy còn dai”.
Trong cảnh đêm khuya, giữa ngày xuân, một mình nàng khóc lóc, ủ ê, sầu tủi “Áo đầm giọt tủi tóc se máu sầu”, một mình nàng đối diện với chính mình. Kiều đã nghĩ đến Kim Trọng., thương cho Kim Trọng hơn là thương cho mình. Nàng thương cho Kim Trọng bị “dở dang” trước “công trình kể xiết mấy mươi”. Nàng mặc cảm thấy mình có lỗi với Kim Trọng: “Vì ta khẳng khít cho người dở dang”. Cái tình, cái nghĩa với Kim Trọng là thế và nàng nghĩ dù có chết cũng không thể nào quên được:
“Nát thân bồ liễu đến nghì truc mai”.
Và sau một sự giằng xé đến đau đơn, sau những băn khoăn đến khắc khoải, Kiều đã quyết định “Trao duyên” cho em gái trong tâm trạng ngập ngừng khó nói “thẹn thùng”. Nàng “thẹn thùng”, khó nói vì nói ra là vĩnh viễn tự mình “đánh mất” tình yêu của mình, cái tình sâu nặng là thế, và còn vì một lẽ nữa. Kiều sợ em mình không nhận. Chính vì thế, trao cho người khác. Dù là em gái, cái duyên, cái quý nhất của một người con gái mà nàng phải lo ngại, phải nhờ cậy, phải quỳ lụy, phải khúm núm, phải van lơn:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”.
Trong nỗi đau đớn đến tội nghiệp ấy, Kiều đã phải tỉnh táo để phân bày cùng em, kể lể cùng em về mối tình của miinhf với Kim Trọng.
“Kể từ khi gặp chàng
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề”.
Giải bày sự tình để cho em hiều lòng mình mà nhận lời. Giải bày sự tình cũng là để gửi gắm tình yêu, tình thương của mình với Kim Trọng. Nói rồi trao ngay kỷ vật, trao ngay cái tình và cái “trách nhiệm” cho em. Chân tình là thế, sâu nặng là thế thì aii mà có thể từ chối được:
“Chị dù thịt nát xương mồn,
Ngậm Cười chín suối cũng còn thơm lây
Chiếc thoa với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người đầu bạc mệnh ắt lòng chẳng quên!”
Trao kỉ vật và “Trao duyên” thì dứt khoát rồi mà sao ta vẫn thấy Kiều còn nuối tiếc, còn muốn chút “thơm lây”, vẫn còn “dù có chết” hồn vẫn quanh quất nơi đây trong từng lá cây, ngọn cỏ. Nguyễn Du thật tài tình khi thể hiện tâm trạng của Nàng Kiều trong cuộc “Trao duyên” này. Miêu tả tâm trạng Thúy Kiều như thế, chứng tỏ nhà thơ, hiểu tâm lý nhân vật của mình lắm và cũng là đồng cảm, thương yêu nhân vật của mình lắm.
Thổ lộ được tâm trạng của mình với em rồi, trao gởi tình yêu của mình cho em rồi, cam chịu phận bạc của mình rồi, lẽ ra Thúy Kiều có thể nhẹ bớt ưu tư, có thể yên tâm mà đi xa biền biệt vào nơi vô định được. Trái lại, quên đi có em ở trước mặt, nàng đã khóc thét lên, khóc để thực sự “sám hối” cho tình yêu của mình. Lời than khóc của Kiều thật là đau đớn tột cùng, thật là thảm thiết:
“Trăm nghìn gửi lại tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao, phận bạc như vôi?
Đã dành nước chảy hao trôi lỡ làng.
Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”.
Hẳn là, khi nghe Kiều than khóc như vậy. Thúy Vân càng thương chị hơn, càng thấy cái “được” của mình là vì chị nữa. Vân cầng hiểu rằng chị Kiều đã chịu “riêng oan một mình”, đã hi sinh tình yêu của mình. Tiếng kêu thét cho tình yêu ấy, dù là tuyệt vọng cũng như vang đến tận tai Kim Trọng đang ở quê xa và có thể còn hơn thế, nỗi đau “trao duyên” của Thúy Kiều như là một nốt sầu thảm trong cung đàn “bạc mệnh” vang đến, động đến cõi lòng và tiềm thức đầy trắc ẩn của người thời ấy và của chúng ta sau hơn hai trăm năm đã qua.