Tác giả tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ vă

1 61 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Đọc Tiểu Thanh Kí - Ngữ văn 11

I. Tác giả Nguyễn Du

Đọc Tiểu Thanh Kí - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

- Nguyễn Du (1765 -1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng) dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc –Bắc Ninh. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.

- Thời đại: Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống.

- Cuộc đời: cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

- Sự nghiệp văn học: sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm:

+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.

+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.

- Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người, nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, ... đó là kết quả của quá trình quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả. Đồng thời lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.

II. Đọc tác phẩm Độc Tiểu Thanh kí

Phiên âm

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh luy phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vẫn,

Phong vận kỉ oan ngã tự cư.

Bất tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch nghĩa

Vườn hoa bên Tây Hồ đã thành bãi hoang rồi,

Chỉ một mình viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ.

Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,

Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở.

Những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được,

Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã

Không biết hơn ba trăm năm sau,

Thiên hạ ai người khóc Tố Như?

Dịch thơ:

Tây Hồ cảnh đẹp hoa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cải án phong lưu khách tự mang.

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

III. Tìm hiểu tác phẩm Đọc Tiểu Thanh Kí

1. Thể loại

- Tác phẩm Đọc Tiểu Thanh Kí thuộc thể loại: thất ngôn bát cú Đường Luật.

2. Xuất xứ

- Tác phẩm được Vũ Tam Tập dich, trong tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, 1965)

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

4. Ý nghĩa nhan đề

Độc: Đọc

: ở phía sau thường chỉ những tác phẩm văn học bằng văn xuôi.

Tiểu Thanh kí là câu chuyện viết về nàng Tiểu Thanh. 

- Tiểu Thanh ở đây là nhân vật trong tác phẩm, lúc sinh thời cô có làm thơ, khi chết những bài thơ ấy đã bị vợ cả đốt, còn sót lại một ít trang. Người đời thương tiếc đem khắc in gọi là “phần dư” gồm 11 bài. 

- Nhưng Tiểu Thanh trong tác phẩm không phải là nhân vật hoàn toàn trùng khớp với Tiểu Thanh trong cuộc đời. Tiểu Thanh trong đời thực sinh năm 1594 mất 1612 còn Nguyễn Du sinh năm 1765 mất năm 1820, dù tính ra sao cũng không thể là “300 năm lẻ”. Ở đây cần lưu ý Tiểu Thanh trong Tiểu Thanh kí thì mất năm 1492. Nguyễn Du khóc nàng 1813 nên nói 300 năm lẻ là đúng.

⇨ Vì thế có người đã cho rằng đặt tên cho nhân vật Tiểu Thanh tác giả muốn nhắn nhủ với độc giả rằng con người lụy tình sẽ có số phận thật hẩm hiu đáng thương (chữ TIỂU hợp với chữ THANH trong tiếng Hán là chữ TÌNH).

5. Bố cục đoạn trích

- 4 phần: Đề - thực - luận - kết.

6. Tóm tắt Đọc Tiểu Thanh kí

Bài thơ Đọc Tiểu Thanh kí thể hiện cảm xúc suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến. Tác giả tiếc thương cho cảnh đẹp Tây Hồ nay đã hóa gò hoang, thổn thức trước tập thơ còn sót lại. Đó là sự xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp. Tố Như tự hỏi không biết người đời sau còn ai khóc cho mình hay còn ai có số phận bất hạnh như mình và Tiểu Thanh hay không?    

7. Giá trị nội dung

- Bài thơ là những cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài văn chương trong xã hội phong kiến. Đồng thời, qua đó cũng thể hiện phương diện trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du: xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp.

- Giá trị nhân đạo sâu sắc:

+ Nguyễn Du xót xa, thương cảm cho Tiểu Thanh- một hồng nhan bạc mệnh, một tài năng thi ca đoản mệnh, cho những kiếp hồng nhan đa truân, tài tử đa cùng nói chung.

+ Với cảm hứng tự thương và sự tri âm sâu sắc, ông đã đặt vấn đề: quyền sống của người nghệ sĩ, sự cần thiết phải tôn vinh, trân trọng những người làm nên các giá trị văn hóa tinh thần.

8. Giá trị nghệ thuật

- Ngôn ngữ: trữ tình đậm chất triết lí.

- Sử dụng tài tình phép đối và khả năng thống nhất những hình ảnh đối lập trong hình ảnh, ngôn từ.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Đọc Tiểu Thanh Kí

Đọc Tiểu Thanh Kí - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

1. Hai câu đề

* Câu 1

- Vườn hoa bên Tây Hồ >< Gò hoang

→ Vẻ đẹp huy hoàng >< Vẻ đẹp hoang vu, cô quạnh

- hình ảnh thuộc về hiện tại - hình ảnh về hiện tại.

→ Sự đối nghịch gay gắt giữa quá khứ và hiện tại gợi lẽ đời dâu bể. → Chứa đựng sự xót xa, thương cảm cho cái đẹp bị tàn phá, vùi dập, huỷ hoại phũ phàng- là cảm xúc mang tính nhân văn khá phổ biến trong VHTĐ (thơ Nguyễn Trãi, Bà huyện Thanh Quan,...)

* Câu 2

- “Độc điếu”- một mình viếng thương→ tâm thế cô đơn của tác giả.

- “Nhất chỉ thư”- một tập sách - tập kí về cuộc đời Tiểu Thanh.

→ Nghĩa câu 2: Một mình viếng thương nàng qua một tập sách viết về cuộc đời nàng đọc trước cửa sổ.

→ Câu dịch chưa chuyển tải hết ý thơ.

→ Câu thơ nguyên tác cho thấy hình ảnh một con người với tâm thế cô đơn, mang một lòng đau tìm gặp một hồn đau. Nó cho thấy sự đồng cảm sâu sắc của trái tim vĩ đại.

2. Hai câu thực

- Đối chỉnh.

- Biện pháp: ẩn dụ tượng trưng.

Son phấn→ sắc đẹp.

Văn chương→ tài năng

→ Tất cả đều có hồn, có thần→ Cảm hứng khẳng định sự quý giá, vĩnh hằng của cái đẹp và tài năng con người.

=> Đề cao giá trị nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du, thể hiện nỗi niềm xót xa cho người tài hoa bạc mệnh, thể hiện triết lí về số phận của con người trong xã hội phong kiến: tài mệnh tương đổ, hồng nhan đa truân,…cái tài, cái đẹp không được chấp nhận, bị vùi dập không thương tiếc thông qua số phận Tiểu Thanh.

3. Hai câu luận

- “Những mối hận cổ kim”- những mối hận của người xưa và nay.

+ Người xưa: Tiểu Thanh và những người phụ nữ cùng cảnh ngộ.

+ Người nay: Những người phụ nữ hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố cùng thời với Nguyễn Du và thế hệ những nhà thơ tài năng nhưng gặp nhiều khổ đau, bất hạnh trong cuộc đời như Nguyễn Du.

→ Ở 4 câu đầu, Nguyễn Du chủ yếu hướng sự thương cảm đến Tiểu Thanh thì đến câu 5, trái tim Nguyễn Du đã hướng tới sự đồng cảm, xót thương đến mọi kiếp hồng nhan bạc mệnh tương đố.

- “Thiên nan vấn”- khó hỏi trời được→ Một câu hỏi lớn ko lời đáp- hỏi trời lời giải đáp mối hận vì sự phi lí của cuộc đời: hồng nhan đa truân, bạc mệnh, tài tử đa cùng.

→ Mối hận càng nhức nhối, con người càng bế tắc, bất lực.

=> Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ, nói về sự đau đớn phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc. Qua đó thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc của Nguyễn Du đến độ “tri âm tri kỉ”.

4. Hai câu kết

- “Ba trăm năm lẻ nữa” → thời gian ước lệ, chỉ tương lai xa xôi.

- “Khóc” → thương cảm.

→ thấu hiểu.

- Tố Như (sợi tơ trắng) là tên chữ, bút hiệu của Nguyễn Du→ tư cách một nhà thơ, một nghệ sĩ, một cái tôi cá nhân→ việc xưng danh này hiếm thấy trong văn học trung đại Việt Nam.

→ Điều Nguyễn Du băn khoăn:

+ Cách hiểu 1: Nguyễn Du lo lắng, băn khoăn ko biết có ai trong mai hậu thấu hiểu, thương cảm ông như ông đã đồng cảm, khóc thương nàng Tiểu Thanh.

+ Cách hiểu 2: Nguyễn Du lo lắng, băn khoăn ko biết ai là người trong mai hậu thấu hiểu, thương cảm ông như ông đã đồng cảm, khóc thương nàng Tiểu Thanh.

→ Cả hai cách hiểu đều cho thấy:

+ Khao khát tri âm.

+ Cảm hứng tự thương – nét mới mang tinh thần nhân bản của VHTĐVN giai đoạn thế kỉ XVIII- nửa đầu thế kỉ XIX- thời đại con người ko chỉ ý thức về nhân phẩm, về tài năng cá nhân mà còn thức tỉnh về nỗi đau của chính mình→ dấu hiệu của cái tôi cá nhân.

+ Tấm lòng nhân đạo lớn lao, “con mắt trông thấu sáu cõi và tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời” của Nguyễn Du. Bởi ông ko những khóc thương cho Tiểu Thanh, cho những kiếp hồng nhan bạc phận thuở trước, khóc thương cho những kiếp tài hoa bạc mệnh đương thời, trong đó có cả chính ông mà còn khóc cho người đời sau phải khóc mình (kiếp tài hoa bạc mệnh vẫn còn trong tương lai).

- Đó là nỗi băn khoăn hợp với lôgíc vận động cảm xúc của nhân vật trữ tình→ hợp lí, chính đáng.

- Nỗi băn khoăn đó đã tìm được sự tri âm của bao thế hệ người Việt Nam sau này:

+ Từ khi tác phẩm của Nguyễn Du ra đời đến nay, ông luôn có vị trí trang trọng trong lòng người Việt Nam.

+ Đặc biệt, ở thế kỉ XX, chưa đến 300 năm, cả dân tộc ta “khóc” Nguyễn Du qua tiếng khóc, tiếng ca của Tố Hữu: “Tiếng thơ ai động đất trời....” (Kính gửi cụ Nguyễn Du).

+ Năm 1965, cả nước ta long trọng kỉ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Thế giới công nhận ông là danh nhân văn hóa...

V. Các đề văn mẫu

Cảm nhận Đọc Tiểu Thanh kí hay nhất (9 mẫu) - Văn 11

Đề bài: Phân tích bài Độc Tiểu Thanh Kí 

Bài tham khảo 1

Tương truyền Tiểu Thanh là một cô gái Trung Quốc có tài và có sắc, sống khoảng đầu thời Minh. Vốn thông minh nên từ nhỏ cô đã thông hiểu nhiều môn nghệ thuật như thi ca, âm nhạc. Năm 16 tuổi cô làm vợ lẽ một nhà quyền quý. Vợ cả là người hay ghen, bắt cô phải sống riêng trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ. Vì đau buồn, cô sinh bệnh rồi chết ở tuổi 18. Nỗi uất ức, đau khổ được cô gửi gắm vào thơ nhưng nhiều bài thơ đã bị người vợ cả đốt, may mắn có một số bài thơ còn sót lại. Thương xót cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ tài sắc là một cảm hứng lớn trong sáng tác của Nguyễn Du. Khi bắt gặp những bài thơ của Tiểu Thanh, ông không thể cầm được lòng mình trước thân phận hẩm hiu, nghiệt ngã của nàng. Cầm tập thơ còn sót lại trên tay, ông ngậm ngùi viết lên bài thơ Độc Tiểu Thanh kí như một lời cảm thương sâu sắc gửi tới người con gái đa tài đã khuất.

Bài thơ chỉ gồm tám câu ngắn gọn nhưng những nỗi niềm chứa đựng trong đó là cả một tấm lòng xót xa sâu đậm. Tiểu Thanh đang độ tuổi xuân vừa đến, chập chững bước vào đời, nàng chưa được hưởng trọn vẹn một ngày hạnh phúc đã phải sống cảnh cô liêu, hiu quạnh bên Tây Hồ:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.

Dịch thơ:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.

Tây Hồ đẹp là thế, nhưng lại không gợi nổi niềm vui cho người con gái đang bị giam cầm trái tim mình bởi lòng người ích kỷ, trái ngang. Lẽ ra, người con gái xinh đẹp, tài giỏi như nàng phải được hưởng một tình yêu tự do, nồng thắm và xứng với tâm hồn mơ mộng, đầy khát khao. Nhưng không, lẽ đời không thuận buồm xuôi gió như thế. Tiểu Thanh bị gả làm lẽ cho một gia đình quyền quý. Những tưởng được hưởng vinh hoa phú quý, người hầu kẻ hạ. Nào ngờ, nàng bị đẩy ra sống riêng trong cảnh cô quạnh, đau buồn. Tiểu Thanh lúc này chẳng khác nào một con chim non buộc phải hạ cánh mình nằm gọn trong chiếc lồng chật hẹp. Tây Hồ đâu phải không có hoa, nhưng cảnh đẹp có ý nghĩa gì khi lòng người đang chan chứa bao niềm đau? Và chính nơi ấy đã trở thành gò hoang chôn vùi cả thân xác lẫn tâm hồn người con gái tội nghiệp. Mãi cho tới khi Nguyễn Du đọc được những bài thơ còn lại của Tiểu Thanh, nàng mới nhận được sự đồng cảm của một người thực sự hiểu đời và thương mình. Cầm tập thơ trên tay, Nguyễn Du thổn thức và nghĩ về nàng Tiểu Thanh đã phải trải qua một đời đau khổ. Đời nàng có lẽ cũng đã tàn tạ, thê lương như mảnh giấy tàn còn sót lại mà nhà thơ đang cầm trên tay.

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư.

Dịch thơ:

Son phấn có thần chôn vẫn hận

Văn chương không mệnh đốt còn vương.

Mười tám năm trôi qua trong cuộc đời, Tiểu Thanh được vui vẻ bấy nhiêu đâu? Bước vào tuổi thanh xuân, bao nhiêu thứ nàng còn chưa được tận hưởng hết đã bị người đời vội vã vùi dập trong cô đơn. Ở Tây Hồ dù cảnh có đẹp đến mấy nhưng cũng không thể khỏa lấp nỗi trống trải trong trái tim đầy khát khao của nàng. Son phấn có thể khiến Tiểu Thanh xinh hơn nhưng vẫn không đủ để làm nguôi ngoai nỗi uất hận trong lòng nàng. Người ta không cầm dao đâm trực tiếp vào người Tiểu Thanh nhưng lại khiến nàng chết dần chết mòn trong sự cô đơn và buồn tủi. Bao nhiêu nỗi niềm của ngày tháng nơi đây, nàng gửi gắm vào những trang thơ, những dòng chữ. Nhưng lòng người ích kỷ muốn xóa hết mọi dấu vết về nàng. Họ đã đốt những tập thơ, như đốt đi chính tâm hồn của Tiểu Thanh. May mắn còn sót lại một ít. Để đến ngày hôm nay Nguyễn Du có dịp được thấu hiểu hơn về thân phận và nỗi niềm của nàng.

Ông khóc cho người trong thơ, nhưng cũng khóc cho những con người cùng cảnh ngộ:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn

Phong vận kì oan ngã tự cư

Dịch thơ:

Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi

Cái án phong lưu khách tự mang

Phải chăng khi sinh ra kiếp phong trần người ta đã tự mang sẵn trong mình những nỗi niềm đau khổ, bất hạnh? Phải chăng đó là ý trời? Nếu đã là ý trời thì sau này có lẽ chính Nguyễn Du cũng phải chịu số phận như vậy chăng?

Bất an tri tam bách dư niên hậu,

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch thơ:

Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Khi niềm đồng cảm và sự xót thương lên đến đỉnh điểm, tác giả đã tự nhìn lại chính mình, tự thương mình biết bao! Ngay lúc này đây ông đang khóc Tiểu Thanh – con người của thế hệ trước, vậy sau này, thế hệ sau liệu có còn ai nhớ đến ông như ông đang nhớ Tiểu Thanh không?

Nguyễn Du khóc thương Tiểu Thanh vì nàng là người con gái bất hạnh, tài hoa nhưng không được hưởng trọn vẹn niềm vui và hạnh phúc. Mà ngược lại đúng lúc tuổi xuân vừa đến lại là lúc nàng bị chôn vùi cả thể xác lẫn tâm hồn trong nấm mồ ích kỷ của lòng người trái ngang. Đồng thời, ông cũng tiếc thương cho những tác phẩm nghệ thuật đâu có tội tình chi nhưng vẫn bị người đời đốt bỏ. Ông nâng niu nghệ thuật bao nhiêu thì lại càng đau khổ vì nghệ thuật bị phá bỏ bấy nhiêu. Những vần thơ chan chứa nỗi niềm của ông như một lời cảm thông sâu sắc dành cho người con gái bất hạnh, khổ đau. Điều đó cũng nói lên một phương diện quan trọng trong chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du: xót xa cho những giá trị tinh thần bị chà đạp.

Bài tham khảo 2

Nguyễn Du dường như có một tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chính vì thế những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh được nhà thơ đặc biệt quan tâm kể về cuộc đời họ trong những trang thơ của mình. Nhắc đến đây thì chúng ta hay nhớ đến tác phẩm Truyện Kiều với nàng Kiều xinh đẹp nhưng bạc mệnh. Thế nhưng nhà thơ Nguyễn Du còn bày tỏ sự thương cảm của một người con gái hồng nhan bạc mệnh khác đó là Tiều Thanh trong tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí. Đồng thời qua đây ta còn có thể thấy được những tâm sự chất chứa trong nỗi lòng của Nguyễn Du.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú, chính vì thế ta đi phân tích lần lượt theo kết cấu của thể thơ để thấy được số phận người con gái chết oan ức ấy đã được Nguyễn Du cảm nhận như thế nào qua cảnh vật Tây Hồ. Đồng thời chúng ta cũng hiểu được những tâm sự của nhà thơ muốn gửi đến độc giả.

Trước hết là hai câu thơ đầu, cảnh Tây hồ hiện lên không đẹp một cách bình thường mà nó mang đến sự oan khuất của người đã mất:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,Độc điếu song tiền nhất chỉ thư”(Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang,Thổn thức bên song mảnh giấy tàn. )

Cái cảnh Hồ Tây kia tưởng chừng là cảnh đẹp nhưng lại không phải, hiện tại bây giờ nó đã hóa gò hoang. Cái chứ “hoang” kia như thể hiện được hết những hoang sơ không bóng người không một âm thanh nơi đây. Cảnh tượng như khắc vào trong lòng người đọc những âm u cùng cốc của cảnh vật. không biết rằng cảnh còn đẹp nhưng cái chết của người con gái đẹp kia làm cho nhà thơ cảm thấy nó không còn đẹp nữa hay là cảnh đẹp ngày xưa nay đã không còn đẹp như trước. Phải chăng chính cái chết oan của người con gái kia làm cho nó không còn đẹp như trước nữa và phải chăng là điều đó chỉ có nhà thơ cảm nhận được thôi?. Dù hiểu thế nào đi chăng nữa thì nơi đây quả thật có một sự âm u quá lớn. Người con gái Tiểu Thanh khi còn sống đàn ca, họa thơ làm cho cảnh Tây Hồ vốn đẹp cũng đẹp hơn nên khi nàng bị người vợ cả của chồng hãm hại mà chết thì cái chết ấy cùng với sự uất hận làm cho cảnh Tây Hồ không còn được như trước nữa. Bên song mảnh giấy như được nhân hóa mang một tâm trạng thổn thức  không yên. Mảnh giấy tàn ấy mà vẫn có thể thổn thức được nữa sao hay đó chính là tâm trạng của người con gái đã mất. Cô không cam tâm với kết cục số phận mình nên thổn thức. Nhưng cũng có một ý nghĩa là mảnh giấy ấy chính là bài ký mà nhà thơ thể hiện sự đồng cảm của mình viếng nàng đã khuất mà thôi. Tóm lại qua hai câu thơ đầu ta thấy được một cảnh tượng thể hiện sự thương xót uất hận.

Đến hai câu thơ sau nhà thơ đi vào nói đến sự nghiệp văn chương của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Và ở đây nhà thơ như tìm được một người đồng điệu với tâm hồn văn chương của mình:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,Văn chương vô mệnh lụy phần dư. ”(Son phấn có hồn chôn vẫn hận,Văn chương không mệnh đốt còn vương. )

Hai câu thơ đầu như là cái nền để nói đến hai câu sau, chính cái chết làm cho Hồ Tây cảnh đẹp hóa gò hoang kia lại làm cho con người ấy dẫu bị chôn vùi trong hàng ngàn lớp đất cũng vẫn hận. Hình ảnh “son phấn” kia để chỉ người con gái Tiểu Thanh xinh đẹp. Ở đây nhà thơ không cần nói đến sự xinh đẹp của nàng Tiểu Thanh mà chỉ cần qua hình ảnh ấy ta cũng hiểu được ẩn ý của nhà thơ để thể hiện người con gái xinh đẹp ấy. Tuy nàng đã bị chôn vùi xuống dưới lớp đất kia nhưng hồn nàng cũng vẫn hận. Văn chương của nàng như vẫn còn vương trên cõi đời này. Người con gái kia thì còn có mệnh chứ văn chương kia có mệnh hay không. Cái mệnh của văn chương phụ thuộc vào cái mệnh của người sáng tác ra nó. Vậy người sáng tác ra nó mất đi rồi nhưng văn chương kia đốt hãy còn vương trên cõi đời này. Như vậy là cái mệnh văn chương kia còn dài hơn cái mệnh của người con gái.

Chính bởi tài sắc, chính bởi hồng nhan những bạc mệnh ấy cho nên nàng Tiểu Thanh chết đi để lại nỗi hờn kim cổ. Đó là một nỗi uất hận sâu sắc :

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,Phong vận kỳ oan ngã tự cư. ”(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,Cái án phong lưu khách tự mang. )

Nỗi hờn kim cổ ấy biết hỏi trời tại sao được nhưng trời cũng không trả lời được vì cái án phong lưu ấy khách tự mang vào người mình thôi. Ở đây Nguyễn Du thể hiện quan điểm của bản thân mình về chữ tài và chữ mệnh. Người con gái càng xinh đẹp càng tài sắc trong cái xã hội cũ ấy thì chỉ có thể có một mệnh bạc bẽo mà thôi:

“Có tài mà cậy chi tàiChữ tài liền với chữ tai một vần”

Nguyễn Du thấy được nàng là người cùng hội cùng thuyền với mình về cái sự phong nhã, cái sự nghiệp văn chương. Thế nhưng lại mắc phải cái oan ức lạ thường mà người trung đại trọng nam khinh nữ làm nên.

Hai câu thơ cuối cất lên với những tâm sự mà Nguyễn Du thể hiện cho chính mình:

“Bất tri tam bách dư niên hậu,Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)

Nhà thơ khóc thương cho người con gái ấy còn không biết rằng khi nhà thơ mất đi có ai khóc ông như ông khóc nàng Tiểu Thanh hay không. Ông cũng có những tính cách phong nhã như nàng, cũng có cái án văn chương ấy liệu rằng khi ông mất đi rồi không biết có ai đồng điệu với tâm hồn văn chương của ông mà khóc thương cho ông hay không. Và câu hỏi ấy đã kết thúc bài thơ và để câu trả lời cho người đời sau trả lời hộ.

Như vậy qua bài thơ ta thấy được số phận của người con gái hồng nhan bạc mệnh ấy. Đồng thời ta cũng thấy được những tâm sự của nhà thơ Nguyễn Du về sau này. Và thực tế đã cho thấy người đời ngày nay vẫn ca tụng đến ông với sự tài hoa qua truyện Kiều.

Video bài giảng Văn 11 Đọc Tiểu Thanh kí - Cánh diều

1 61 lượt xem