Tác giả tác phẩm Cải ơi (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Cải ơi Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Cải ơi - Ngữ văn 11
I. Tác giả Nguyễn Ngọc Tư
- Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976, tại Cà Mau, mọi người thường gọi là cô Tư.
- Nguyễn Ngọc Tư là một trong những nhà văn thuộc thế hệ 7x. Trước khi bén duyên với công việc viết lách, Nguyễn Ngọc Tư chỉ là một cô gái nông dân bình thường của vùng sông nước Cà Mau. Sau đó, nhờ sự động viên của cha cùng tài năng văn chương và sự đồng cảm với những hoàn cảnh con người vất vả, lam lũ, Nguyễn Ngọc Tư đã bắt tay vào viết những tác phẩm văn học đầu tiên của mình.
- Ba tác phẩm đầu tay của Nguyễn Ngọc Tư được đăng tải trên tạp chí Văn nghệ bán đảo Cà Mau. Ấn tượng với cô gái trẻ có văn phong hết sức độc đáo, chị được nhận vào làm tại chính tạp chí này.
- Liên tiếp sau đó, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cho ra mắt nhiều tác phẩm với tiếng vang và giải thưởng lớn. Hiện nay, chị đã gia nhập Hội nhà văn Việt Nam và được coi là hiện tượng văn học đặc biệt ở Nam Bộ, một nhà văn của sự mộc mạc và bình dị thôn quê.
- Đến nay, Nguyễn Ngọc Tư đã có rất truyện được xuất bản, in ấn số lượng lớn như Ông ngoại, Biển người mênh mông, Giao thừa, Nước chảy mây trôi, Cái nhìn khắc khoải, Cánh đồng bất tận.
II. Đọc tác phẩm Cải ơi
Cải ơi
Nguyễn Ngọc Tư
Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương nghe hay, mà khuôn mặt cũng hay, không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, vui buồn không ra, đố ai biết nó nghĩ gì. Nó hất mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre, nhìn hai người, cười héo hắt, “Ăn bám mà kéo theo cả bầy”. Thàn cười hề hề, bảo “Ông Năm, bạn anh. Dễ thương lắm”.
Đêm đó ông già không ngủ được, thằng Thàn đi chơi nửa đêm mới mò về, thấy ông khọm rọm' ngoài vách mùng”, điếu thuốc cháy lập loè soi bộ râu xơ xác. Thàn mở dây giày, hỏi, “Nhớ đoàn quá, ngủ không được hả tía?”. Ông già lắc đầu, thở dài, nghe buồn xao xác như lá rụng hoa rơi, than điệu nầy hổng biết cách nào tìm cho ra con Cải.
Ông đã đi tùn con nhỏ gần mười hai năm, đã đi qua chợ qua đồng, tới rất nhiều quê xứ. Lúc nhỏ Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi nó làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Rồi con nhỏ không quay lại, vợ ông khóc lên khóc xuống, bảo chắc là ông để bụng chuyện nó là con của chồng trước nên ngược đãi, hà khắc, đuổi xua. Ông lấy trời đất, thần phật, rắn rít và cả kiếp sau (mặc dù cũng chưa biết nó ra làm sao) ra thề nhưng bà không tin, giận chẳng nhìn, chớ thèm cười nói. Người ta còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào, họ ùn ùn lại coi. Ông khăn gói bỏ xứ ra đi, bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về.
Ai dè, biển người mênh mông. Mỏi chân, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa
nhạc, để trước giờ diễn, ông mượn cái micro nói vài câu “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con...”. Bữa nào thằng Thàn nhớ nhà, nghe câu ấy nó cũng rướm nước mắt, bảo “Con thương ông già con quá, tía ơi”. Hôm đi ba Thàn còn cầm cây rượt nó chạy ngời ngời, nhảy xuống đò, nó ngoái lại nói để con làm ca sĩ nổi tiếng cho ba coi, thấy ông dứ cây lên trời. Hai năm, ông già đã chỏng đầu cây xuống đất, tựa vào đó để bước đi, tên tuổi Thàn mờ mịt. Thàn bùi ngùi, người ta Quách Phú Thành (nổi tiếng Hồng Kông, tui thiếu có chữ h, lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn. Nhiều bữa hát ế ngoi ngóp nằm nghe mưa dầm, nhiều bữa đứng soát vé bị bọn du đãng địa phương rượt chạy xịt khói, Thàn muốn về nhà nhưng sợ ông già cười thúi mũi.
Y hệt, ông già Năm Nhỏ cũng có nhà mà không về được. Đã đau quá trời đất rồi, cái cảnh bà con hàng xóm xầm xì, chỉ trỏ, người ở xa còn thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng đâu, thằng cha giết con đâu? Đâu, con nhỏ bị chôn chỗ nào? Đã quá chùng đau, khi ông nhìn sâu trong ánh mắt của vợ mình thấy không còn lấp lánh thương yêu, chỉ tối tăm những ngờ vực, hoài nghi, và bữa ông đi, bà đứng giữa nắng trưa, cuốc đất (chỗ đất còn mới tinh ông vừa lên liếp ).
Nên ông Năm Nhỏ trụ lại ngã ba Sương tiếp tục cuộc kiếm tìm. Ông mướn một cái nhà nhỏ như hộp quẹt, đủ cho hai người còm nhom chui ra chui vào, vét túi trên túi dưới sắm một chiếc xe kẹo kéo có dàn nhạc sống xập xình, kéo thằng Thàn theo. Ngày chạy ra bán ở chợ rau chợ cá, tối ghé vài quán nhậu, khuya về đậu ở ngã ba, xe kẹo kéo của ông nổi tiếng nhờ giọng ca nhừa nhựa của thằng Thàn, nhờ giữa hai bài hát có mục “nhắn tìm con” buồn ác chiến.
Ngã ba Sương nhiều đêm thổn thức trong tiếng “Cải ơi !!!...”, nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu tạo tác giữa lưng trời. Một bữa Diễm Thương bước ra, thảng thốt gọi “Ba !”. Ông già đứng im sũng, ngơ ngác giây lát, môi run lập bập hỏi Cải phải hôn con. Diễm Thương gật đầu. Thiệt con là Cải hả? Diễm Thương níu tay ông rung rung gọi thêm một tiếng Ba tha thiết. Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy'. Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Nghe giọng đúng là cuộc hành trình ròng rã mười hai năm khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Vợ ông ra của che tay khun khun trên trán, hỏi ai vậy cà, ông nói con Cải chớ ai, bà mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng”. Ông hả hê, trong lòng không giấu được
Nghĩ đến đó, nước mắt ông tuôn dài. Diễm Thương cười, đứng dậy khoan khoái phủi tay, nói không ngờ mình diễn quá hay, rồi nó khom người, nhìn sâu vô đôi mắt ràn rụa của ông già, mặt tỉnh bơ ba khía), mỉa mai, “Tui giỡn đó, ông làm ba kiểu gì mà không nhớ mặt con gái mình?”.
Và cơn mơ hết. Diễm Thương đi gom tiền thắng độ, đám tiếp viên léo nhéo nhằn ông già sao mà dễ tin, làm họ mất mấy chục ngàn. Diễm Thương lạnh lẽo cười, cái mặt nó hay hết biết, kiếm tiền dễ ợt mà chẳng gợn lên chút đắc ý nào. Ông Năm bẽ bàng ngồi đó, bẽ bàng lau nước mắt, cười héo queo héo quắt, “Con nhỏ giỡn có duyên hết hồn” mà trên khuôn mặt vẫn còn đầy ú những thương yêu. Thằng Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp, nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhởn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu.
Trò diễn kết thúc, ông già nằm rũ, đúng hai ngày lời nhắn tìm con Cải lại mênh mang ở ngã ba Sương. Con Diễm Thương bực lắm, nó gặp Thàn là đá ghế quăng ly, nó nói ổng đừng mắc công tìm, con Cải chắc chết ngắc rồi. Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm... Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng. Rồi nó nghẹn ngào, còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, mà không ai trở lại tìm, tui chờ hoài... Thàn mới hay đời con nhỏ cũng buồn, hai đứa ôm nhau, thở dài nghe cả vành tại tê tái.
Tối đó, Thàn nằm gác tay lên trán, nói “Mai mốt con dẫn nhỏ Diễm Thương về lạy ông già con à, tía Năm. Tính thương chơi thôi nhưng bây giờ thành thiệt rồi”. Ông Năm phấn khởi, vậy hả, vậy à, phải làm đám cưới tử tế cho con nhỏ đỡ tủi, để tao làm ba nó, đại diện cho đàng gái làm sui chơi.
Mùa nắng quay trở lại, ngã ba Sương mọc thêm chừng chục quán nhậu nữa, muốn hay không cánh công an phòng chống tệ nạn xã hội cũng phải để ý cái chòm lu bu nầy. Phía báo đài đang dòm ngó. Một bữa, họ ập vào, quay phim, chụp hình búa la xua. Đám tiếp viên che mặt, ôm đầu, chỉ có Diễm Thương là điềm nhiên trơ mắt ngó.
Phóng sự phát lên ti vi, cái nhìn đó như dấu hỏi nao lòng tôi đây nè mà ba má ở đâu? Có nhận ra tôi không? Có nghe đau lòng? Thằng Thàn thấy cảnh người yêu tỉnh bơ [...], buồn quá, bỏ đi uống rượu. Biểu “đưa con nhỏ về nhà”. Thằng Thàn nói:
- Con không đành lòng để tía ở lại một mình.
- Vậy bây nỡ nào nhìn con nhỏ khổ hoài sao?
Một sớm, hai đứa dắt nhau đi, ông già nhìn theo cho đến khi bóng chúng chìm
giữa mịt mù. Cả nhà Thàn hết hồn vía dồn lại ngó nhau, nhận ra đứa con gái nầy lên ti vi hôm trước, và Diễm Thương ngạo nghễ cười, hỏi bác ơi, mấy giờ có chuyến tàu ra thị xã. Mờ chiều, đám trẻ trở lại, mặt con Diễm Thương vẫn thản nhiên nhưng thằng Thàn buồn tê tái.
Con người ta, hết đau bề nầy tới đau bề khác, ông Năm xa xót nhìn hai đứa trẻ chơi vơi mất đường về. Diễm Thương nói tui mắc cười quá ông Năm à, tui lên ti vi để cha mẹ nhìn mà họ không biết tui là ai, còn người dung liếc ngang là nhớ liền. Ông già Năm Nhỏ lặng người đi, tự hỏi, bây giờ ông lên ti vi, con Cải có nhận ra ông không. Câu trả lời là có, ông đã dắt con nhỏ đi hái xoài chín trong vườn hoang đã chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều, ông đã cõng con nhỏ đi tắt mấy vạt đồng đến khám bệnh chỗ ông bác sĩ già, mỗi khi nó nhức đầu, sổ mũi. Cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, mấy cục kẹo dừa vung vinh trong túi áo mỗi khi ông đi chợ về... Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên. Ông già muốn lên ti vi để nhắn đứa trẻ bỏ nhà rằng, về đi con ơi, đôi trâu có sá gì!
Đăng tin trên truyền hình đắt đỏ, mà lần nào lại phòng quảng cáo ông cũng phải đôi co, đòi phải đọc theo ý mình, trong đó có đoạn, “Con không về ba nhớ đã đành, má con còn giận ba, không nhìn mặt”. Người ta cười, trên đài chứ có phải chợ trời đâu mà muốn nói gì cũng được. Ông giận, quày quả về nhà, nghĩ cách tự mình lên ti vi. Chỉ tội, câu nói gọn hơ vậy mà ông chưa có dịp gởi lời. Có lần, ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim vụ lấn chiếm lòng lề đường, người hốt thúng mỏng cá rau bỏ chạy, ông sướng rơn lăng xăng chạy tọt chỗ nầy ló mặt đằng kia, mấp máy câu “Cải ơi...” (mà vô phim người ta đã xoá mất tiếng còn đâu). Chỉ mong được thấy mình trên ti vi, một khuôn mặt teo héo sạm đen dưới những sợi tóc ngả màu trắng xoá, một thân hình gầy guộc, lưng đã chớm còng... “Mình thèm lên ti vi muốn chết giấc mà không được, còn mấy ông cán bộ ngồi chình ình trong đó hoài, thấy mắc ngán, ông già Năm Nhỏ than thở với thằng Thàn, nói sao tao muốn làm bí thơ tỉnh quá”. Thàn kêu, trời ơi, chi vậy tía. Ông cười, lên ti vi chớ chi, lúc đó tạo Thằng Thàn cũng cười, tưởng tía làm lớn để lo cho dân, ai dè cũng bo bo cho mình.
Họ ngồi đụt mua dưới một hàng ba trường tiểu học. Nước đổ trắng trời. Mùa còn ướt lạnh dài dài. Thằng Thàn lo ở nhà mưa dột ướt đầu giường về không có gối để nằm, không mền để đắp. Diễm Thương biết có chạy qua không hay là bận khách, bận cười cợt (mà lòng não nề) biểu uống với em chút nữa đi anh. Thàn chép miệng buồn quá tía ơi. Mê văn nghệ văn gừng nên chừng nầy tuổi đầu rồi mà nghèo quá chừng, đến nỗi không lo được cho nhỏ Thương. Ông già Năm Nhỏ thấy thằng Thàn xuống nước mắt. Ừ tối nay, ông cũng thấy mình hoang mang buồn bã rã rời, như sắp đến cuối đường rồi, mà không biết chắc có nhà mình phía đó. Ông thở dài ứ hự, chống tay liêu xiêu đứng lên, bảo, mưa chắc còn dài, thôi dầm mình về, nhỏ. Đêm đó, thằng Thàn ôm ông già Năm ngủ, nó kêu lên, tía ốm dữ dằn) thiệt, xương tía cấn con đau quá chừng. Ông già cười, ờ, chê mai mốt không có mà ôm nghen con.
Thằng Thàn hỏi ông nói vậy là có ý gì, ông hỏi ngược lại, chớ bộ mầy tính cưới vợ rồi mà còn chun qua ngủ với tao? Thàn cười, ờ há ờ hen. Mắc cười, ông còn rù rì tính chuyện nấu mâm cơm cúng trời đất để sáp nhập nhỏ Diễm Thương về nhà bên nầy, sắm cái tủ thuốc lá để cho nó buôn bán vặt thì thằng Thàn đã ngáy o o. Nửa đêm, Thàn giật mình tỉnh giấc, không thấy ông già, nó ngật ngừngồi dậy, trên bụng rót xuống một gói tiền. Xe kẹo kéo vẫn còn nguyên, Thàn kéo của bước ra ngoài. Ngã ba Sương đã tắt đèn, những con đường hun hút mù mịt dưới mưa, như không cần biết đến từ đâu, chỉ biết gặp ở đây, phút nầy. Thằng Thàn làu bàu, hổng biết ông già chùng nầy mà đi đâu vậy cà.
Ông Năm đi ăn trộm chớ đâu. Ông lội bộ gần năm cây số trong mưa sụt sùi vô trong xóm, ghé chỗ lò mổ, dắt đôi trâu đem đi. Ông làm gọn gàng như với đôi trâu ở nhà. Sáng ra ông trở lại, ghé đúng ngôi nhà có hàng so đũa cặp mé lộ), ông thấy một đám người đang tạo tác đúng ngồi, ông hỏi, mua trâu hôn, tui kẹt tiền đem bán đây nè. Chủ nhà chạy ra la lên, trời ơi, bắt ổng lại, ổng ăn trộm của tôi. Ông Năm giả đò hết hồn, nhưng trong bụng thấy trúng ý, bảo, từ từ, tui có chạy đâu mà sợ. Từ nhà người ta đưa ông lên ấp, ấp giải lên xã, ông ra bộ sợ sệt, luôn miệng nhắc, mấy chú nhớ kêu đài truyền hình xuống nghen, phải quay tui để dân người ta cảnh giác. May, đài tỉnh xuống thật, phóng viên một tờ báo cũng chạy xổ theo, dọc đường hăm hở rút sẵn tít “Tên trộm đang trí”. Họ phỏng vấn ông chủ lò mổ, phỏng vấn trưởng công an xã, cuối cùng ông Năm xin được nói đôi lời, còn dặn, mấy chú làm ơn đừng cắt bỏ tiếng tui, rằng “Cải oi, ba là Nam Nhỏ nè, nhà mình ở Cổ Cháy đó, nhớ không? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì... Về nghen con, ơi Cải...”. Nghe đâu, hôm đó, nhiều người rơi nước mắt, vì vậy mà vụ trộm trâu không được lên ti vi, sống giữa cái rẻo đất nhân hậu nầy nhiều khi cũng hơi phiền.
Nghe đâu, hôm đó đài truyền hình có đưa tin nhưng chỉ thấy ông già nhép miệng một cách tuyệt vọng. Như đã nói, nhà đài người ta chớ có phải chợ trời đâu, mà có thể thoải mái gọi, “Cải ơi!”.
(Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2013, tr. 7 – 16)
III. Tìm hiểu tác phẩm Cải ơi
1. Thể loại
Cải ơi thuộc thể loại truyện ngắn
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
Cải ơi là tác phẩm lấy trong tập Cánh đồng bất tận sáng tác 2005 là tập truyện ngắn hay và đặc sắc nhất của tác giả Nguyễn Ngọc Tư.
3. Phương thức biểu đạt
Văn bản Cải ơi có phương thức biểu đạt là tự sự
4. Ý nghĩa nhan đề
Ngay từ tên truyện với hai chữ “Cải Ơi” đã cho thấy rất nhiều cảm xúc với những ý nghĩa nhan đề cho thấy tình cảm yêu thương của người cha dành cho con mặc dù bị nói tiếng xấu nhưng cha vẫn hết lòng vì con, bảo vệ con. Tiếng ‘ơi” như lời gọi đầy não nề, tuyệt vọng.
5. Tóm tắt văn bản Cải ơi
Cải ơi là một tác phẩm truyện ngắn của nhà văn Nguyên Ngọc Tư, qua đó đã để lại cho ta nỗi vấn vương về những mảnh đời bất hạnh. Năm nhỏ- một người cha già, ông đã lang thang trên khắp vùng miền để tìm kiếm Cải- con gái được hơn mười hai năm rồi. Lần ấy vì làm mất trâu, mà nó sợ nên bỏ nhà ra đi. Thấy vậy từ vợ đến người ngoài ai cũng nghĩ rằng vì nó không phải con ruột nên ông tính toán, ngược đãi. Dù ông có giải thích thế nào, những vẫn chẳng ai chịu nghe và hiểu ông. Vậy rồi, ông quyết định lên đường tìm cái Cải về. Nói thì dễ, nhưng thoắt cái, mười hai năm trôi qua, nhưng vẫn chẳng có tin tức gì. Lần ấy khi biết được nếu lên ti vi có khả năng cao sẽ tìm được cái Cải, nhưng tiền để được phát sóng lại quá đắt. Vậy nên ông đã nghĩ ra kế, ông đi trộm trâu của người ta, để bị bắt. Vậy là ông đã được lên ti vi, lên báo theo đúng ý nguyện của mình, nhưng khi phát sóng, người ta chỉ thấy Năm nhỏ nhép miệng một cách tuyệt vọng. Qua tác phẩm, nhà văn gửi gắm rất nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
6. Bố cục văn bản Cải ơi
Gồm 4 phần:
- Phần 1: Từ đầu cho đến “…dứt khoát tìm được con Cải về”: Con Cải bỏ đi và ông Năm ra đi tìm Cải.
- Phần 2: Tiếp theo cho đến “… làm sui chơi”: Hành trình đi tìm Cải của ông Năm.
- Phần 3: Tiếp cho đến “…đi đâu vậy cà”: Nỗi trăn trở của ông Năm đi tìm Cải.
- Phần 4: Còn lại: Câu chuyện của ông Năm.
7. Giá trị nội dung
Nội dung của tác phẩm chủ yếu nói về lòng yêu thương của người cha, tình phụ tử thiêng liêng và đầy lòng yêu thương của con người đó cũng chính là giá trị nhân văn sâu sắc về tình cha trong xã hội qua đó đòi hỏi mỗi người cần yêu thương cha hơn trong cuộc sống.
8. Giá trị nghệ thuật
Bằng những câu từ đầy sáng tạo và ý nghĩa sâu sắc đã cho thấy được tài năng của Nguyễn Ngọc Tư, một tài năng trong khai thác tâm lí nhân vật.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Cải ơi
1. So sánh trật tự của các sự kiện trong câu chuyện và trong truyện kể (mạch truyện) và nhận xét về hiệu quả nghệ thuật của cách tổ chức truyện kể.
Giống nhau: các sự kiện đều bổ túc cho nhau, góp phần tạo nên sự hấp dẫn cho câu truyện.
Khác nhau:
+ Các sự kiện trong truyện diễn ra không theo một trình tự mà hỗn loạn, lúc là ở quê, lúc ở đoàn ca múa nhạc, lại nhớ về quê, kể lại hoàn cảnh của Năm nhỏ và sau đó là hành trình tìm Năm nhỏ, nhớ lại quá khứ rồi lại quay về với thực tại.
+ Các sự kiện trong câu chuyện lại rất hợp lí. Truyện kể về hành trình vất vả đi tìm cô con gái của ông Năm nhỏ bỏ nhà đi từ nhỏ, sau một lần làm mất cặp trâu vì sợ hãi quá mà bỏ trốn. Ông bị dân làng đồn đại là không phải ba ruột nên đối xử tàn ác với con bé và có người còn nghĩ là ông giết chết con bé chôn ở một chỗ đất nào. Và sau 12 năm vất vả tìm kiếm cuối cùng ông cũng tìm thấy con gái.
Cách kể chuyện tuy không theo một trình tự nhất định nhưng cũng chính điều đó làm cho câu chuyện trở nên thú vị và độc đáo hơn. Tạo được sự tò mò cho người đọc khi tác giả liên tục xoay chuyển cảnh của câu chuyện, đang đi tìm rồi lại nhắc câu chuyện ở quê rồi lại quay lại, liên tục xoay chuyển không theo một trình tự nhất định. Cách kể chuyện như vậy cũng làm nổi bật lên hình ảnh người cha ngày đêm đi tìm con gái của mình, một nỗi mong mỏi, khao khát và tình yêu thương vô bờ bến của người cha dành cho con gái, chỉ có một điều duy nhất nhất định phải tìm được đó là người con gái của mình. Chính cách kể này đã đưa người đọc hết cung bậc cảm xúc này tới cung bậc cảm xúc khác, rưng rưng xúc động trước tình cảm bao la mà người cha dành cho con gái.
2. Đặc điểm của người kể chuyện trong truyện: ngôi kể, quan hệ và thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật
- Tác giả kể câu chuyện theo ngôi kể: thứ ba, gọi nhân vật bằng tên.
- Quan hệ và thái độ của người kể chuyện đối với các nhân vật: Người kể đã rất thông thái khi đặt mình vào hoàn cảnh của từng nhân vật và cũng từ đó cách kể chuyện trở nên chân thật, gần gũi hơn. Người đọc cảm nhận được rõ sự chân thực của câu chuyện. Những cuộc hội thoại trong câu chuyện rất chân thật, rất đời thường và gần gũi, mỗi cuộc hội thoại đều đã thể hiện rất rõ hoàn cảnh, tính cách của nhân vật. Nổi bật trong tác phẩm là hình ảnh ông Năm nhỏ với khát khao tìm được con gái của mình, chính tình yêu thương và niềm mong mỏi, khao khát tìm được con gái đã làm cho mạch của câu chuyện trở nên độc đáo và đặc sắc hơn. Ta có thể thấy tác giả đã khắc họa rất thành công nhân vật người cha trong câu chuyện.
3. Hệ thống điểm nhìn trong tác phẩm (người kể chuyện chủ yếu trần thuật theo điểm nhìn của mình hay của nhân vật, điểm nhìn bên trong hay bên ngoài chiếm ưu thế, từng điểm nhìn làm hé lộ những điều gì trong tâm lí nhân vật).
Trong tác phẩm, tác giả chủ yếu trần thuật theo điểm nhìn từ bên trong, tức là đứng trên lập trường của từng nhân vật để đối thoại hay giải quyết tình huống. Ví dụ khi Diễm Thương giả diễn làm cái Cải, ông Năm Nhỏ nghe vậy vừa bất ngờ, ngơ ngác rồi rưng rưng thể hiện rõ qua những câu hỏi tu từ “Thiệt con là Cải hả?”, “môi run lập bập hỏi cải phải hôn con”... Kết hợp với lời kể của tác giả là lời của chính nhân vật, dường như tác giả đã hoàn mình vào cảm xúc, cung bậc của nhân vật để thốt ra những câu hỏi nhói lòng, những câu từ mang ý nghĩ tượng trưng cao để làm nổi bật niềm vui sướng, mừng hụt của người cha già đang mong mỏi tìm thấy con gái suốt 12 năm. Đây là một nghệ thuật kể chuyện khá độc đáo, đã được nhiều tác giả sử dụng để nâng cao hiệu quả biểu đạt, xây dựng hình tượng nhân vật như trong truyện Chí Phèo của Nam Cao, Vợ nhặt của Kim Lân… điều đó càng thể hiện tầm quan trọng của việc lựa chọn điểm nhìn kể chuyện bởi nó không chỉ đơn giản phản ánh tâm lí của nhân vật mà nó còn thể hiện một thông điệp sâu xa mà tác giả muốn truyền tải.
4. Lời cộng hưởng giữa người kể chuyện và nhân vật được đan xen nhau xuyên suốt toàn câu chuyện
- Thàn mở dây giày, hỏi, “Nhớ đoàn quá, ngủ không được hả tía ?”. Ông già lắc đầu, thở dài, nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi, bần thần, điệu này hỏng biết cách nào tìm cho ra con Cải.
-Một bữa Diễm Thương bước ra, thảng thốt gọi “Ba !”. Ông già đứng im sững, ngơ ngác giây lát, môi run lập bập hỏi Cải phải hôn con. Diễm Thương gật đầu. Thiệt con là Cải hả ?….
- Diễm Thương cười, đứng dậy khoan khoái phủi tay, nói “Không ngờ mình diễn quá hay”, rồi nó khom người, nhìn sâu vô đôi mắt ràn rụa của ông già, mặt tỉnh bơ ba khía, mỉa mai, “tui giởn đó, ông làm ba kiểu gì mà không nhớ mặt con gái mình ?”.
→ Toàn bộ câu chuyện đều là những lời kể của tác giả được đan xan với lời nói của nhân vật. Sự cộng hưởng là một yếu tố rất quan trọng giúp cho câu chuyện trở nên có hồn, hay hơn, đặc sắc hơn. Cốt truyện cũng nhờ vậy trở nên hay hơn, độc đáo hơn, gần gũi với người đọc và giúp người đọc hiểu hơn.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Cải ơi
Bài tham khảo 1
Trong tác phẩm Cải ơi của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng ta được đưa vào một thế giới đau buồn và đầy lòng nhân ái, nơi những con người lưu lạc tìm kiếm sự thương yêu và ý nghĩa cuộc sống. Tác phẩm này được viết bởi một trong những nhà văn nữ tiêu biểu của văn học đương đại – Nguyễn Ngọc Tư, nữ thi hào sinh năm 1976 ở Cà Mau. Với việc sử dụng truyện ngắn, tiểu thuyết và tản văn, tác giả đã tạo ra một tập truyện đa dạng, trong đó Cải ơi được coi là một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất.
Qua câu chuyện, người đọc thấy nhân vật chính là ông Năm Nhỏ, một người nông dân xuất thân từ làng Cỏ Cháy. Số phận của ông được quyết định bởi việc mất con Cải. Ông đã dành cả cuộc đời để tìm kiếm con, đi qua những khó khăn và nghèo khổ. Ông có tình yêu thương vô hạn dành cho con và không từ bỏ bất kỳ cơ hội nào để tìm kiếm con. Ông cũng có lòng bao dung, sự vị tha và thương yêu những người đồng cảnh ngộ. Trong truyện “Cải ơi”, tác giả đã sử dụng trật tự kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu của ông Năm đối với con. Có một chi tiết đặc biệt là ông Năm muốn lên truyền hình để con thấy mình đã chứng tỏ ông không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Điều này thể hiện rõ mong muốn và quyết tâm của ông trong việc tìm kiếm con yêu.
Trong những khoảnh khắc lặng người, ông Năm hồi tưởng lại những kỷ niệm đáng yêu khi còn có Cải bên cạnh. Ông nhớ từ những kỷ niệm nhỏ như dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang, chặt chuối làm bè và dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều cho Cải. Những hình ảnh này thể hiện tình yêu và sự quan tâm của ông đối với con trước khi họ bị chia cắt. Có một lần ông Năm đậu xe kẹo đầu chợ và thấy người ta đang quay phim, ông còn rất vui mừng và sẵn sàng chạy lại để xuất hiện trước ống kính và gọi “Cải ơi…”. Đó vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì về con. Sự sẵn lòng và sự kiên nhẫn của ông Năm trong việc tìm kiếm con đáng được ngưỡng mộ.
Nhân vật Thàn, một người có ước mơ và hoài bão, đồng cảm với ông Năm và có tình yêu chân thành với Diễm Thương. Cuộc sống của Thàn trở nên lưu lạc vì không thể thực hiện được ước mơ của mình. Nhân vật Diễm Thương, một nhân vật khác trong truyện, có một quá khứ đau buồn khi bị cha mẹ bỏ rơi. Cô có ngoại hình và tính cách lạnh lùng, vô cảm. Tuy nhiên, cô khao khát được yêu thương và có một cuộc sống đáng sống. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông không trách cứ hay mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết rằng Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn đại diện cho họ như một người cha. Điều này cho thấy ông Năm đã thấu hiểu nỗi đau của những người không có gia đình, không có nơi để trở về. Mỗi nhân vật đều được tác giả xây dựng cụ thể và điểm nhìn linh hoạt cho phép lời người kể và lời nhân vật hòa quyện với nhau. Tác giả cũng xây dựng và miêu tả tâm lý nhân vật một cách tinh tế. Ngôn ngữ trong tác phẩm mang chất khẩu ngữ miền Nam, tạo nên sự chân thực và chặt chẽ với ngữ cảnh của câu chuyện.
Tình yêu và lòng nhân hậu của ông Năm Nhỏ không chỉ dành riêng cho con gái mình, mà còn lan tỏa đến những người xung quanh. Qua những câu chuyện và nhân vật trong tác phẩm Cải ơi, chúng ta được mở mang tầm nhìn và suy ngẫm về cuộc sống và con người.
Bài tham khảo 2
Khi bàn về “Nỗi sợ đối với nhà văn”, Nguyễn Ngọc Tư đã bộc bạch: “Riêng tôi tin vào duyên...Không phải cứ tích lũy mày mò tháng ngày mà thành, văn chương không tùy thuộc vào sự thuần thục, cũng như ta biết không phải viết nhiều, đều đặn thì là nhà văn”. Đúng vậy,giữa tác phẩm văn học với người đọc bao giờ cũng tồn tại thứ duyên ngầm khó ước đoán, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của nhà văn. “Cải ơi” chính là một tác phẩm có cái duyên ngầm ấy. Vẫn lối viết giản dị, chân xác, bộc trực của con người phương Nam, Nguyễn Ngọc Tư đã đem đến cho người đọc những day dứt khôn nguôi về số phận của những con người lưu lạc.
Truyện ngắn “Cải ơi!” còn có tên là “Ơi Cải về đâu”, nằm trong tập truyện ngắn “Cánh đồng bất tận” sáng tác năm 2005. Tác phẩm kể về cuộc hành trình tìm con ròng rã của ông Năm Nhỏ. Cải - đứa con riêng của vợ với người chồng cũ, bỏ nhà ra đi vì làm mất cặp trâu, sợ bị đòn. Từ ngày ấy, cuộc sống của ông Năm gặp vô vàn bất hạnh. Ông hứng chịu sự dòm ngó và khinh miệt từ làng xóm cùng sự lạnh lùng, hắt hủi từ người vợ. Ông quyết định rời quê hương, ra đi tìm con. Theo chân chuyến hành trình khắc khoải của người cha ấy, ta còn bắt gặp những con người có thân phận lưu lạc khác như Thàn, Diễm Thương.
Tác phẩm có thể được chia thành bốn phần. Trong đó, phần một kéo dài từ đầu cho đến “tìm được con Cải về”, phần hai từ tiếp theo cho đến “rủ đi ăn hủ tiếu”. Phần ba nối tiếp cho đến “Chết lặng” và phần bốn là toàn bộ nội dung còn lại. Nhan đề tác phẩm, bao gồm cả nhan đề cũ và mới đều bao gồm tiếng “Ơi” như một lời gọi. “Cải ơi” là tiếng gọi vừa yêu thương, nhung nhớ cũng vừa đau đớn, vô vọng của ông Năm Nhỏ suốt mười hai năm trời ròng rã tìm con. Nhan đề ấy đã góp phần thể hiện sâu sắc nội dung tư tưởng của tác phẩm.
Mở đầu tác phẩm là hoàn cảnh éo le “Đoàn ca múa nhạc giải tán, thằng Quách Phú Thàn dẫn ông già Năm Nhỏ về ngã ba Sương, Thàn có nhỏ bồ mới quen bán quán ở đó. Con nhỏ tên Diễm Thương”. Các nhân vật hiện lên trong hoàn cảnh khá đặc biệt. Người đọc sẽ tự hỏi tại sao một ông già lại cùng tham gia vào đoàn ca múa nhạc với một chàng trai trẻ? Điều gì đã khiến Thàn quyết định dẫn theo ông Năm Nhỏ về ngã ba Sương? Dường như, cuộc đời của mỗi con người đều chứa đựng nhiều uẩn khúc và những câu chuyện khuất lấp đó, nay lại tiếp tục ở nơi ở mới này. Nguyễn Ngọc Tư luôn đặt cho nhân vật những cái tên giản dị, đậm màu sắc Tây Nam Bộ. Sáu Đèo, Út Vũ, Dậu, Sáo, Năm Nhỏ - tất cả đều là những cái tên gợi lên số phận đáng thương, nhỏ nhoi, cơ cực. Nhân vật Thàn có cái tên đặc biệt, gần giống với tài tử Hong Kong mà khuyết mất một chữ “h”, dường như đây là dấu hiệu cho thấy Thàn có một niềm đam mê nghệ thuật mãnh liệt nhưng vì “thiếu” chút gì đó mà không thể thành danh. Sau này, chính Thàn cũng ngậm ngùi số phận “lẹt đẹt bên hông Chợ Lớn” của mình. Diễm Thương thì khác, cô có cái tên thật đẹp, vừa yêu kiều lại vừa trìu mến. Thế nhưng, trái ngược với cái tên, Diễm Thương lại có khuôn mặt “không đẹp nhưng bình thản, lạnh trơ, không ra vui, buồn, đố ai biết nó nghĩ gì, mái tóc nhuộm vàng hoe chơm chởm như rễ tre”. Tên các địa danh như làng Cỏ Cháy, ngã ba Sương gợi liên tưởng đến những miền quê quanh năm nắng cháy, những con phố mịt mờ như vô định không biết đâu là điểm dừng.
Ba con người, ba mảnh đời héo hon ấy đã gặp gỡ, cùng nhau trải qua những tháng ngày mưu sinh và cũng là mưu cầu hạnh phúc. Cuộc đời và chính con người họ, không ai là “lành lặn”. Với lối kể giản dị, ngôi kể thứ ba cùng hệ thống điểm nhìn thay đổi linh hoạt, Nguyễn Ngọc Tư đã diễn tả những đau đớn tột cùng, những những khát khao bình dị của những con người nhỏ bé.
Nhân vật chính trong truyện là ông Năm Nhỏ. Ông có tình yêu thương con vô bờ, tấm lòng nhân hậu hết mực,lòng tự trọng đáng quý và số phận bất hạnh, phải lưu lạc suốt mười hai năm. Để làm nổi bật những đặc điểm ấy ở ông Năm, tác giả đã đảo lộn trật tự các sự kiện trong truyện kể, lồng ghép giữa quá khứ và hiện tại, Ngay ở phần đầu là khung cảnh ông Năm sống với Thàn và Diễm Thương. Tối hôm ấy, Thàn đi chơi về, thấy ông Năm vẫn ngồi khọm rọm ngoài vách mùng hút thuốc. Thàn hồn nhiên nghĩ rằng ông Năm nhớ đoàn quá nên ngủ không được. Ông già lắc đầu, thở dài, cái tiếng thở dài “nghe buồn xa xắc như lá rụng hoa rơi”. Hóa ra, ông bần thần vì không biết làm thế nào để tìm ra con Cải. Quá khứ của ông lúc này hiện về trong dòng hồi tưởng. “Lúc Cải mười ba tuổi, một bữa mê chơi làm mất đôi trâu, sợ đòn, nó trốn nhà. Cả nhà tong tả đi tìm nhưng mãi con nhỏ không quay lại”. Ngày Cải đi, vợ ông ôm cái áo con Cải khóc, bà cho rằng ông ngược đãi, hà khắc với nó vì Cải là con với chồng trước. Ngày ngày, bà nhìn ông bằng con mắt chứa đầy hoài nghi, thù ghét. Không chỉ gia đình mà bà con làng xóm cũng quay lưng với ông. Người ta xầm xì, chỉ trỏ. Có ai quan tâm đến thực hư con nhỏ đã đi đâu hay đồng cảm với nỗi đau đứt ruột của người cha? Thói đời là thế, người ta nhảy bổ vào xâu xé kẻ “có tội” như con thiêu thân lao đến ánh đèn. Để thỏa mãn sự hiếu kì nhân danh lòng đức độ, có người còn dập dìu thuê đò dọc lại nhà ngó nghiêng. Cũng có người “thẳng thắn”, “thông minh” hơn, biết tận dụng vụ việc mà bưng bánh dừa, trà đá đến bán. Thậm chí, có kẻ giàu tưởng tượng và giàu luôn cả sự nhẫn tâm còn đồn đãi ông giết con nhỏ rồi lấp ở một chỗ đất nào. Người kể chuyện thể hiện thái độ thương xót, đồng cảm với ông Năm trước tình cảnh đau đớn, để ông bộc lộ cảm xúc của mình: “Ông đau mà không nói được một lời, ông đã nâng niu nó khi mới thôi nôi, đã vui khi có người bảo con nhỏ giống ông in hệt (dù biết họ khen khơi khơi, khen bổng trên trời)”. Khi con Cải đi rồi, ông đã ứa nước mắt khi đi qua chiếc giường trước kia nó ngủ. Có bữa, ông hì hụi ém mùng như thể Cải vẫn còn ở nhà. Mất con, người cha hành động như một kẻ mất hồn. Lúc nào lòng ông cũng đau đáu vì nhớ con, lo lắng con lưu lạc nay đây mai đó, không biết sống chết ra sao. Những câu: “Như thế mà ông không thương nó sao ? Như thế mà là không thương à?” như lời tự giãi bày, thanh minh của ông Năm Nhỏ. Ông nói với chính mình, nói với những người nghi oan cho ông và hơn hết, ông cũng muốn nhắn nhủ với Cải rằng ba nó thương nó lắm, hãy về nhà với ba má nó đi. Vì thế, ông quyết định khăn gói bỏ xứ ra đi, “bụng dạ đinh ninh dứt khoát tìm được con Cải về”. Ông Năm không chỉ là một người cha yêu thương con hết mực mà còn rất giàu lòng tự trọng. Đọc những sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, không hiếm khi ta bắt gặp kiểu nhân vật lưu lạc như thế này. Ông Năm tha hương không phải vì mưu sinh mà như một sự tự lưu đày, trốn chạy và quên đi niềm đau dù nỗi đau ấy chẳng lúc nào nguôi ngoai.
Dòng hồi tưởng cứ thế tiếp tục. Sau những tháng ngày lênh đênh, ông xin làm sai vặt trong đoàn ca múa nhạc. Ông chọn công việc ấy bởi lí do hết sức đáng thương. Ông thường mượn cái micro nói vài câu trước giờ diễn: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè con...”, hi vọng đứa con bé bỏng của ông có thể xuất hiện trong đám khách hoặc nếu có người biết tin thì báo cho ông. Người làm cha chẳng từ bỏ một chút hi vọng nào, dù là nhỏ nhoi nhất, để tìm lại được con. Về sau, ông còn dồn hết tiền mua một cái nhà lụp xụp và xe kẹo kéo. Xe kẹo kéo có mục “nhắn tìm con” của ông nổi tiếng khắp các chợ cá, quán nhậu, ngã ba. Sự nỗ lực, kiên trì, tình yêu thương của ông thật đáng khâm phục. Ròng rã suốt chừng ấy thời gian, người cha này chưa lúc nào nguôi ngoai đi tội lỗi và niềm đau mất con. Sự trở về của Cải là điều duy nhất có khả năng giải thoát ông khỏi sự dày vò. Lạc lõng, nổi trôi thì đớn đau, khổ sở vô cùng nhưng nếu ông không đi khỏi Cỏ Cháy, chính niềm ân hận, tuyệt vọng cùng thái độ của những người xung quanh sẽ giết chết ông. “tiếng “Cải ơi !!!…” nghe ngắc ngoải như tiếng chim kêu giữa lưng trời”. Ông Năm chính là một cánh chim cô đơn đến tội nghiệp!
Sau khi hé lộ quá khứ của ông Năm và nguyên do khiến ông trụ lại ngã ba Sương, người kể chuyện lại quay trở về thực tại, tiếp tục hành trình tìm con của nhân vật này. Cải, đối với ông, trở thành niềm hạnh phúc xa xăm trong quá khứ, sự khao khát tuyệt vọng của hiện tại. Ông níu lấy những hi vọng mong manh về con bé như một người sắp rơi xuống vực tìm kiếm sợi dây. Chìm trong nỗi đau quá lâu, ông Năm như mất trí. Có lẽ, chỉ những người xung quanh là thảng hoặc nhận ra điều ấy. Diễm Thương đã lợi dụng sự “thèm” con của ông Năm để lấy tiền cá cược. Giây phút nghe thấy con nhỏ thảng thốt gọi “Ba !”, ông “đứng im sững, ngơ ngác giây lát”. Niềm hạnh phúc ập đến quá nhanh khiến đôi môi ông runrun, lập bập hỏi: “Cải phải hôn con?”. Nguyễn Ngọc Tư vẫn giữ nguyên những từ ngữ địa phương để diễn tả chân xác từng sắc thái cảm xúc của nhân vật. Người kể chuyện chú ý đến từng cử chỉ, biểu cảm của ông Năm: “Ông già nắn đầu, nắn vai nó với một nỗi vui chảy tràn, trời đất, ba nhìn không ra, bây lớn dữ dằn vầy”, “Ông đi vài bước, ông day lại nhìn Diễm Thương (cho chắc là nó đang đứng đây, và có thiệt trên đời), ngước về phía trời sao, rồi ngó thằng Thàn, ông cười, để miệng muốn méo sao thì méo, “Tía kiếm có con Cải rồi, dễ ợt hà mầy ơi”. Những suy nghĩ thầm kín, khát khao bên trong của nhân vật cũng được người kể chuyện phơi bày: “Nghe giọng là cuộc hành trình ròng rãi mười hai năm của ông (và những oan khuất, buồn đau ) khép lại ở đây rồi. Ngày mai ông dẫn Diễm Thương về Cỏ Cháy, ngay trên chuyến tàu đầu. Chắc vợ ông ra cửa che tay khum khum trên trán, hỏi ai vậy cà, ông sẽ nói con Cải chớ ai, bà sẽ mừng hết lớn, phải còn trẻ thể nào bà cũng nhảy cà tưng. Ông sẽ đưa nó đi dài xóm, khoe “Con Cải tui về đây nè, bà con coi, nó lớn quá chừng hen”, vẻ mặt không giấu được hả hê (vậy mà mấy người nói tui giết nó)”. Vẫn là ngôi kể thứ ba nhưng điểm nhìn đôi khi được thay đổi linh hoạt để nhân vật bày tỏ tâm trạng một cách chân thực. Và thế là, giọt nước mắt của ông lăn dài trên má. Nguyễn Ngọc Tư từng chia sẻ: “Tôi nghĩ, nếu vẽ một biểu tượng của nghề viết mà tôi đang đeo đuổi, tôi sẽ vẽ hình ảnh của giọt nước mắt, hay gần giống như thế… Khi viết về thân phận, nỗi đau, sự bối rối thường trực của con người trước những biến cố của cuộc đời, tôi luôn ao ước những trang viết của mình có được sự rung cảm như những giọt nước mắt”. Ở đây, giọt nước mắt của ông Năm đã cho thấy niềm hạnh phúc đến nghẹn ngào, vỡ bung ra bởi bị kìm nén quá lâu. Giọt nước mắt đã gom hết biết bao tình cảm, nỗi đau, sự rối bời từ quá khứ đến hiện tại. Ông gặp nhỏ Diễm Thương hằng ngày kia mà? Cớ nào lại không biết mặt nhỏ? Có lẽ, chỉ cần nghe thấy tiếng “Ba!” là tâm trí ông bị lu mờ, chỉ còn biết nghĩ đến viễn cảnh đưa con về Cỏ Cháy.
Chi tiết ông muốn lên tivi để con thấy mình đã chứng tỏ ông Năm không ngại làm bất cứ việc gì để tìm con. Trật tự kể chuyện lại được đan xen giữa quá khứ và hiện tại để làm nổi bật tình yêu con. Ông già lặng người đi, hồi tưởng lại những kỉ niệm dắt Cải đi hái xoài chín trong vườn hoang,chặt chuối làm bè dạy cho nó lội, thả trâu, chơi diều rồi cõng nó đi tắt mấy vạt đồng đến chỗ ông bác sỹ già. Ông nhớ từ cây kẹp nhỏ, mớ dây thun khoanh, đến mấy cục kẹo dừa. Ông tự nhủ: “Tất cả những thứ đó, ông nhớ mồn một thì nhỏ Cải chắc chưa quên”. Thậm chí, có lần ông đậu xe kẹo đầu chợ, thấy người ta làm phim, ông còn sướng rơn lăng xăng chạy lại ló mặt vào mấp máy câu “Cải ơi...”. Vẫn là hai tiếng “Cải ơi…” ấy, ông đã gọi không biết bao nhiêu lần trong suốt mười hai năm lưu lạc mà vẫn chẳng có một tin tức gì.
Không chỉ hết lòng vì con gái, ông Năm Nhỏ còn là một người giàu lòng nhân hậu, đức hi sinh, biết yêu thương. Những tháng ngày sống ở căn nhà lụp xụp, kéo xe kẹo kéo đi khăp nơi, giữa ông và Thàn đã nảy sinh tình cảm nồng ấm như tình cha con ruột thịt. Họ đồng cảm, bảo bọc, chở che nhau. Thàn gọi ông Năm là “tía”, tối tối chui vào giường ông ngủ và ôm ông như ôm lấy người cha. Ông Năm cũng dành cho Thàn và Diễm Thương sự bao dung vô bờ. Ông chẳng trách cứ, mắng mỏ trò đùa ác ý của Diễm Thương. Thậm chí khi biết tin Thàn sẽ dẫn Diễm Thương về quê, ông còn muốn làm đại diện họ nhà gái. Có lẽ, thấm thía nỗi đau của những người không nhà, không có nơi để về nên ông Năm đã thương cảm cho Thàn, Diễm Thương và coi họ như những đứa con của mình. Ông vẫn vui cho niềm vui của đôi trẻ mà không để nỗi đau của mình ảnh hưởng đến những người xung quanh.
Với tất cả những điều trên, người đọc luôn hi vọng ông Năm Nhỏ sẽ tìm lại được đứa con của mình, chấm dứt chuỗi ngày tha hương. Thế nhưng, câu chuyện lại có một cái kết vô cùng ám ảnh. Ông quyết định trở thành một tên trộm, mà ông lại trộm đôi trâu - thứ mà con gái ông đã làm mất. Dường như ông muốn chứng minh cho Cải thấy rằng đôi trâu ấy chẳng sá gì đâu! Khi bị đưa lên xã, ông chỉ chực chờ có đài truyền hình xuống quay hình “để dân người ta cảnh giác”. Người ta gọi ông là “Đạo tặc đãng trí”, nhiệt tình phỏng vấn các bên đương sự. Chỉ duy có câu nói của ông: “Cải ơi, ba là Năm Nhỏ nè, nhà mình ở Cỏ Cháy đó, nhớ không ? Về nhà đi con, tội má con vò võ có một mình. Con là trọng, chứ đôi trâu cộ nhằm nhò gì… Về nghen con, ơi Cải…” là bị cắt bỏ. Câu chuyện lưng chừng ở đó, liệu ông Năm có tìm được Cải hay tiếng gọi ấy vẫn lại vang vọng hoài trên ngã ba Sương (hay một con đường nào khác)?
Ngoài ông Năm Nhỏ thì Thàn và Diễm Thương cũng là những thân phận lưu lạc, bơ vơ đến đáng thương nhưng mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Thàn là một chàng trai có ước mơ, có đam mê và quyết sống trọn với đam mê ấy. Anh từng hi vọng sẽ trở thành ca sĩ nổi tiếng để khiến cha tự hào. Thàn cũng dành cho Diễm Thương một tình yêu chân thành, sự trân trọng và cảm thông đặc biệt. Dù tính tình Diễm Thương lạnh lùng, không cảm xúc, vì mưu sinh và những tổn thương quá khứ mà trở nên gai góc nhưng Thàn vẫn thương cô thật lòng. Với ông Năm Nhỏ, Thàn coi ông như người cha. Ngày đoàn hát giải tán, Thàn dẫn theo ông về chỗ Diễm Thương. Khi Diễm Thương lấy nỗi đau của ông Năm để cá cược, “Thàn ứa lòng nhìn ông Năm già đi khủng khiếp nó giận muốn bóp cổ nhận nước Diễm Thương cho rồi, khi con nhỏ nhơn nhơn trở qua, giơ nắm tiền, rủ đi ăn hủ tiếu”. Cuối cùng, Diễm Thương không phải là nhân vật chính, hiện lên với những lời thoại thô lỗ, cộc cằn nhưng cũng để lại trong lòng người đọc những trăn trở. Vẻ ngoài lạnh lùng của cô được tạo nên bởi tuổi thơ cơ cực. Thái độ gay gắt, có phần khó ưa của Diễm Thương khi thấy ông Năm tìm con xuất phát từ sự tủi thân. Không giống như ông Năm, Diễm Thương không khóc mà chua xót nói: “Sao tui thù con nhỏ đó quá trời, có nhà mà bỏ, có cha có mẹ mà không thèm... Cái thứ người đó, cho nó chết bờ chết bụi cũng đáng”, “Còn tui, người ta đã quăng ở đây mười tám năm, tui chờ hoài mà có ai tìm đâu…” Cô cũng “lên tivi” như ông Năm để ba mẹ thấy mình. Nhưng định kiến, sự cô đơn đã vùi dập cô gái ấy quá nhiều, dường như cô quá quen chăng? Ngày bị gia đình Thàn phản đối, cô chỉ chào rồi bỏ về. Ẩn sau sự lạnh lùng, không ai hay biết cô đang nghĩ gì là một trái tim khao khát yêu thương đến vô cùng. Với các nhân vật phụ, tác giả cũng sử dụng lối kể chuyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại khi hồi tưởng lại những ngày Thàn ở nhà với người cha ruột, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lời của nhân vật với lời người kể chuyện và khắc họa tâm lí nhân vật sâu sắc thông qua lời nói, cử chỉ, suy nghĩ.
Nhà văn đã sắp xếp trật tự sự kiện trong truyện đan xen giữa quá khứ và hiện tại, ngôi kể thứ ba – người kể chuyện toàn tri cùng hệ thống điểm nhìn linh hoạt, sự hòa quyện giữa lời người kể và lời nhân vật để miêu tả chính xác, khách quan diễn biến hành động và nội tâm của từng nhân vật. Từ đó, truyện khắc họa sâu sắc số phận cô đơn, nhỏ bé, đáng thương của những con người phải lưu lạc và bày tỏ niềm đồng cảm, trân trọng trước những vẻ đẹp tâm hồn của họ. Hơn hết, tác phẩm còn đề ra cho ta một day dứt, trăn trở về cách đối nhân xử thế, về lòng bao dung trong cuộc đời.
Với “Cánh đồng bất tận”, Nguyễn Ngọc Tư thực sự “không còn là cô gái Việt Nam viết về Việt Nam, mà là một nhà văn viết về thân phận con người”.