Tác giả tác phẩm Dương phụ hành (Kết nối tri thức 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Dương phụ hành Ngữ văn lớp 11 sách Kết nối tri thức đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 49 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Dương phụ hành - Ngữ văn 11

I. Tác giả Cao Bá Quát

Dương phụ hành - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Kết nối tri thức

- Cao Bá Quát (1809 – 1855), tự Chu Thần, hiệu Mẫn Hiên, lại có hiệu Cúc Đường, quê ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

- Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt. Sau này, ông tham gia nhiều kì thi, nhiều lần bị đánh trượt, cũng nhiều lần bị giam giữ nhưng cuối cùng ông vẫn giữ những chức vụ khác nhau trong triều đình nhà Nguyễn.

- Cao Bá Quát là quân sư trong cuộc nổi dậy Mỹ Lương nhưng đã bị triều đình nhà Nguyễn xử trảm, và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong lịch sử văn học Việt Nam.

- Ngay khi Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), các tác phẩm của ông đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành, nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kĩ thuật trung ương (Hà Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.

- Thơ văn ông bộc phát thái độ phê phán mạnh mẽ chế độ phong kiến trì trệ, bảo thủ và chứa đựng tư tưởng khai sáng có tính chất tự phát, phản ánh nhu cầu đổi mới của xã hội Việt Nam trong giai đoạn giữa thế kỉ XIX.

II. Đọc tác phẩm Dương phụ hành

Dương phụ hành

(Bài hành về người thiếu phụ phương Tây)

Cao Bá Quát

Phiên âm

Tây dương thiếu phụ y như tuyết,

Độc bằng lang kiên toạ minh nguyệt.

Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,

Bả duệ nâm nâm hướng lang thuyết.

 

Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,

Dạ hàn vô ná hải phong xuy.

Phiên thân cánh sảnh lang phù khởi,

Khỏi thức Nam nhân hữu biệt li.

Dịch nghĩa

Người thiếu phụ Tây dương- áo trắng như tuyết,

Tựa vai chồng ngồi dưới bóng trăng thanh.

Nhìn thuyền người Nam thấy đèn lửa sáng,

Kéo áo nói rì rầm với chồng.

Một cốc sữa hững hờ trên tay,

Gió bể thổi hơi lạnh ban đêm không chịu nổi.

Vươn mình đòi chồng nâng đỡ dậy,

Há biết người Nam có cảnh biệt li.

Dịch thơ

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,

Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu.

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,

Kéo áo, rì rầm nói với nhau.

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,

Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!

Uốn éo đòi chống nâng đỡ dậy, 

Biết đâu nỗi khách biệt li này.

(Lê Tư Thực dịch, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 748 – 749)

III. Tìm hiểu tác phẩm Dương phụ hành

1. Thể loại

Dương phụ hành thuộc thể loại hành (một thể thơ của thơ cổ phong).

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Dương phụ hành được Cao Bá Quát sáng tác trong chuyến xuất dương hiệu lực năm 1844. Bài thơ được viết theo thể hành, một thể của thơ cổ phong.

3. Phương thức biểu đạt

Bài thơ Dương phụ hành có phương thức biểu đạt là biểu cảm.

4. Bố cục bài thơ Dương phụ hành

Bố cục gồm 2 phần

- Phần 1: 7 câu đầu: Hình ảnh người thiếu phụ Tây dương

- Phần 2: câu thơ cuối: Tâm trạng của nhà thơ

5. Giá trị nội dung

Dương phụ hành là một bài thơ hay khi tác giả khắc họa chân dung người thiếu phụ Tây Dương, qua đó nhà thơ nghĩ về giai nhân và tài tử, về hạnh phúc trong sum họp và nỗi đau trong li biệt. Trong chuyến đi này, ông có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, thấy nhiều điều mới lạ.

6. Giá trị nghệ thuật

- Thể hành viết lối đơn giản nhưng dễ hiểu

- Lời thơ mộc mạc chứa ý nghĩa sâu sắc

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Dương phụ hành

Phân tích Dương phụ hành hay nhất - Văn 11

1. Hình ảnh người thiếu phụ Tây dương

* Hình ảnh người thiếu phụ

- Thời gian: buổi tối

- Không gian: dưới bóng trăng thanh

- Sự việc: Người phụ nữ Tây phương tựa vai người chồng trong đêm trăng thâu tíu tít trò chuyện, thân mật.

- Các chi tiết miêu tả người thiếu phụ phương Tây: áo trắng phau, tựa vào vai chồng, kéo chồng thì thầm nói, tay cầm một cốc sữa, nũng nịu đòi chồng đỡ dậy.

 Tất cả những chi tiết đó làm nổi bật lên hình ảnh một người phụ nữ đang làm nũng với chồng của mình. Nàng muốn được chồng yêu mến, chiều chuộng và cảm thấy hạnh phúc khi làm những hành động đấy. Đây cũng là cách tác giả muốn nói đến người phương Tây, họ luôn cởi mở, phóng khoáng và không e ngại khi làm những hành động như vậy ở nơi công cộng bởi theo họ vợ chồng yêu nhau là việc hết sức bình thường. 

* Cảm xúc của tác giả khi nhìn thấy cảnh tượng

- “Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau”

→ Câu thơ phần nào cho thấy sự phóng túng, sa hoa trong cách ăn mặc của người phương Tây khiến tác giả có phần lạ lẫm

- “Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu/ Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói/ Kéo áo, rì rầm nói với nhau”

→ Hình ảnh người thiếu phụ tựa vai chồng một cách âu yếm, hạnh phúc khiến tác giả có chút ghen tị khi nhìn lại hoàn cảnh của mình. 

- “Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay/ Gió bể, đêm sương, thổi lạnh thay!”

 Khung cảnh ban đêm tĩnh lặng, gió lạnh khiến nỗi buồn của tác giả càng dâng trào 

- “Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,”

→ Người thiếu phụ tiếp tục làm nũng chồng khiến tác giả càng thêm buồn vì tình cảnh lẻ loi, cô độc nơi đất khách quê người của mình

- “Biết đâu nỗi khách biệt ly này.”

→ Nỗi buồn, cô đơn của tác giả được đẩy lên cao trào và thốt ra thành lời, tác giả thương thay cho thân phận đất khách quê hương và tình cảnh lẻ loi, cô độc của mình. 

2. Tâm trạng của nhà thơ

- Câu thơ cuối cùng tương phản với bảy câu thơ trước đó. Nhà thơ tự hỏi chính mình “Biết đâu nỗi khách biệt li này”.

 Câu thơ cuối trở thành câu thơ hay nhất của bài Dương phụ hành. Chúng ta khâm phục, chia sẻ với những khát vọng nhân đạo chủ nghĩa ở nhà thơ. Chúng ta càng đau đớn với tấm lòng giàu tình yêu thương của ông. Cao Bá Quát sừng sững một khí phách và cũng biết bao ân tình của một trái tim dào dạt, mềm yếu!

- Người thì đang hạnh phúc sum họp, còn nhà thơ thì đang sống trong nỗi đau buồn và cô đơn của cảnh biệt ly. Nỗi đau càng được nhân lên nhiều lần trong cảnh ngộ phải đi “dương trình hiệu lực”, tài năng bị dập vùi, công danh bị dở dang, một kẻ sĩ trải qua nhiều cay đắng trên con đường hoan lộ. Chỉ một câu thơ mà nói được bao điều tâm sự.

 Tâm trạng của nhân trạng nhân vật trữ tình trong câu thơ kết chính là nỗi nhớ khi xa quê, xa gia đình. Bên cạnh đó, câu thơ còn thể hiện tính nhân văn, một góc nhìn mới rất hiện đại, ông như được mở mang đầu óc sau chuyến đi đó.

=> Qua bài thơ, người đọc thấy đượcc cái nhìn đa sầu, đa cảm và tư tưởng tiến bộ của nhà thơ. Người phụ nữ trong xã hội này cần được yêu thương, chăm sóc, có quyền nũng nịu người chồng của mình chứ không phải như người phụ nữ phương Đông vất vả, khổ cực, muốn chồng san sẻ một chút cũng khó. Qua đó, cũng thể hiện tâm hồn phóng khoáng, đầy nhân văn của tác giả, tác giả cũng mong muốn có một gia đình ấm no, hạnh phúc, tác giả cũng được khai sáng hơn sau chuyến đi này, mở ra một góc nhìn thoáng hơn, mới hơn, hiện đại hơn. 

V. Các đề văn mẫu

Đề bài: Phân tích bài Dương phụ hành  

Bài tham khảo 1

phan tich bai tho duong phu hanh cua cao ba quat

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát 

Bài mẫu: Phân tích bài thơ Dương phụ hành của Cao Bá Quát

Cao Bá Quát là một nhà thơ sinh sống dưới triều Nguyễn nước ta, ông là người có tài năng, học vấn, thơ văn của ông mang nhiều màu sắc phong phú và chủ đề đa dạng, bộc lộ được lòng yêu nước thương dân, tấm lòng đồng cảm sâu sắc với những số phận khổ đau, bất hạnh, đồng thời cũng lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến mục rỗng. Và đặc biệt so vớ nhiều nhà thơ cùng thời, thơ của Cao Bá Quát lại mang một phong thái khác lạ, bởi ông biết du nhập và làm mới thơ văn của mình bằng những nét văn hóa, cái đẹp vượt xa ngoài lễ giáo phong kiến phương Đông. Và một minh chứng cụ thể cho quan điểm trên chính là bài Dương phụ hành.

Dương phụ hành có nghĩa là Bài hành về người thiếu phụ phương Tây, được viết khi ông bị cử theo phái bộ của Đào Phú Trí sang Inđônexia làm công cán, thực chất chuyến đi này là hành trình đi phục dịch 'lấy công chuộc tội'. Nhưng cũng chính chuyến đi này đã làm cho Cao Bá Quát được mở rộng tầm mắt, tiếp thu những vẻ đẹp mới từ trời Âu xa xôi, mà có thể theo nhiều nhà nho nhà văn cho ấy là vô phép tắc. Trong đôi mắt nhà thơ người thiếu phụ Tây phương duyên dáng, xinh đẹp hiện lên thật khác lạ trong màu áo trắng tinh khôi như sau:

'Thiếu phụ Tây Dương áo trắng phau,Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,'

Có lẽ với đa phần người phương Đông, màu 'trắng phau' không phải là một màu gì đẹp đẽ, mà mang nhiều không khí tang tóc, buồn bã, cũng không ai dám mặc tự tin diện chúng ra bên ngoài cả, có chăng là lớp áo lót bên trong, được che đậy bằng thứ quần áo có màu khác bên ngoài. Thế mà người phụ nữ Tây phương ấy lại vượt ra khỏi tầm suy nghĩ khi diện một bộ váy trắng phau, và càng bất ngờ hơn bộ váy áo ấy dường như càng tôn lên cái vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người thiếu phụ. Hơn thế nữa, người phụ nữ ấy công khai tựa vào vai chồng thật hạnh phúc để ngắm 'bóng trăng thâu', một hình ảnh mà đối với chúng ta bây giờ thực lãng mạn biết mấy, nhưng trong đôi mắt ngập tràn lễ giáo xưa thì có cái lý nào lại như vậy. Tuy nhiên bằng tầm mắt và suy nghĩ rộng mở của mình Cao Bá Quát lại thấy hình ảnh ấy thật đẹp thật duy mỹ, thật ngọt ngào tình cảm quá, khéo mơ ước cả đời cũng chẳng có dịp vậy. Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên và cảm giác như bắt được một cái thứ gì đó mới lạ thú vị lắm, ông tiếp tục đưa đôi mắt tinh tế của mình để quan sát thì càng ngạc nhiên hơn trước những cử chỉ thân mật, âu yến mà người thiếu phụ dành cho chồng mình thật tự nhiên, ấm áp:

'Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,Kéo áo rì rầm nói với nhau.'

Người thiếu phụ ấy thấy điều thú vị nơi chiếc thuyền, thì tay khẽ giật áo chồng ríu rít tâm sự, kể chuyện nhau nghe, trông thật dễ thương, gần gũi biết bao. Hành động này tuy đã đủ ngạc nhiên nhưng vẫn chưa bằng ba câu sau đây:

'Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,Gió bể đêm sương thổi lạnh thay!Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy,'

Vợ chồng tựa vai nhau, tâm sự cũng đã đủ gió đêm đã lạnh, cả hai cùng có ý về nhà, và cô vợ đã có một cử chỉ thật yêu kiều, thể hiện sự yếu đuối cần chở che bao bọc của người phụ nữ ấy là 'Uốn éo đòi chồng nâng đỡ dậy'. Ôi nghe cái cử chỉ nũng nịu ấy sao thấy xao xuyến và dễ thương đến lạ lùng, bỗng thấy phụ nữ phương Đông thật khổ hạnh, chắc chẳng bao giờ nghĩ tới việc được chồng đỡ đàn cho tí chút, chỉ chăm chăm cơm nước hầu hạ, chẳng khác con ở là mấy. Tất cả cũng chỉ tại cái lễ giáo cứng nhắc, bảo thủ một cách hài hước đã vùi dập làm cho cái đẹp đẽ trong tình cảm vợ chồng, cái yếu đuối, mong ước được chiều chuộng của người phụ nữ không có cơ hội ngóc đầu. Lời thơ của Cao Bá Quát cũng như tiếng thở dài và lòng ngưỡng mộ trước một thứ văn hóa xa lạ, nhưng tất cả những điều ông hằng quan sát từ vợ chồng người thiếu phụ nọ chỉ là cái cớ, cái bệ phóng cho hàng vạn những cảm xúc dồn nén từ đáy lòng bấy lâu. Chỉ một câu thơ cuối ta mới vỡ lẽ ra nhưng tâm tư kín đáo ấy của nhà thơ:

'Biết đâu nỗi khách biệt ly này!'

Hóa ra, nhà thơ đang nhìn cảnh vợ chồng họ tình cảm mà tự thấy xót xa cho thân phận xa quê, xa gia đình của mình đấy ư, qủa thật đắng cay trăm ngàn. Chính tình cảm lứa đôi ấm nồng, khiến người ta phải thổn thức ghen tị đến đỏ mắt đã khiến ông mường tượng về người vợ nơi quê nhà, nỗi khát khao về một gia đình hạnh phúc, chồng vợ thuận hòa, hai bên đỡ đần mà lại tình cảm như thế kia thì tốt biết mấy. Câu thơ cuối là lời than của sự thiếu vắng nơi đất khách, đồng thời cũng thể hiện cái bản tính phóng khoáng , vẻ đẹp thật nhân văn, mới mẻ nơi tâm hồn người thi sĩ.

Dương phụ hành là một tác phẩm có tính nhân văn sâu sắc, phản ánh khát khao sâu thẳm bên trong con người, không phân biệt màu da, tôn giáo ấy là nỗi niềm khát khao về một gia đình hạnh phúc, ấm áp, mong ước có được tình cảm gần gũi giữa vợ chồng. Đồng thời bài thơ cũng thể hiện một góc nhìn mới, một cái nhìn thật nhân văn, ấy là người phụ nữ có quyền được chở che, được nũng nịu và được thương yêu sau tất cả những gì họ hi sinh cho gia đình.

Bài tham khảo 2

I- VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ

Cao Bá Quát là một nhà thơ lớn, một tên tuổi sáng chói của văn học Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX. Ông nổi tiếng bởi nhân cách cứng cỏi, ngang tàng và văn tài sắc sảo, mới mẻ. Thơ ông có thể ví là cây đàn điệu hết sức phong phú về nội dung cảm hứng. Đó là những tình cảm thiết tha gắn bó với quê hương xứ sở, là sự đồng cảm sâu sắc với bao người khổ đau, bất hạnh, là niềm tự hào về quá khứ lịch sử của dân tộc và thái độ phê phán mạnh mẽ đối với chế độ phong kiến đương thời. Đặc biệt, khác với nhiều cây bút cùng thời, qua sáng tác của mình, Cao Bá Quát bộc lộ một trí tuệ sáng suốt, nhạy cảm tiếp nhận những hương vị, màu sắc xa lạ với quan niệm truyền thống và một tâm hồn phóng khoáng biết hướng tới cái đẹp đích thực không bị bó buộc, đóng khung bởi những khuôn khổ của tình cảm theo lễ giáo Khổng - Mạnh.

II- PHÂN TÍCH, BÌNH GIẢNG TÁC PHẨM

Ở Bài hành về người, thiếu phụ phương Tây được sáng tác trong dịp Cao Bá Quát theo phái bộ của Đào Phú Trí đi công cán ở Inđônêxia. Tiếng là được dương trình hiệu lực nhưng thực chất là điều đi phục dịch để lấy công chuộc tội. Tuy thế có cuộc hoạn du mới biết cá lớn nghìn dặm, trên hải trình công cán, nhà thơ mới có dịp tiếp xúc với những người châu Âu, với một nền văn minh xa lạ, từ đó mở rộng tầm mắt và tâm hồn. Đặc biệt, chuyến đi đã giúp tác giả phát hiện ra những nét mới đáng yêu của người đàn bà Tây phương và trong mắt Cao Bá Quát, người đàn bà Tây Phương hiện lên thật sinh động, hấp dẫn:

Thiếu phụ Tây dương áo trắng phau,

Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu,

Cuộc đời nhiều thăng trầm và bôn ba đã rèn cho Cao Bá Quát năn lực quan sát nhạy bén, sắc sảo. Chỉ vài chi tiết cụ thể theo lối tả thực, nhà thơ đã khắc họa được một hình ảnh đầy ấn tượng. Đó là màu áo trắng - tuyết của người thiếu phụ Tây dương. Người phương Đông vốn vẫn coi màu trắng là màu của tang tóc. Ở đây, tác giả kín đáo cảm nhận màu áo đó như một vẻ đẹp. Tinh ý, ta có thể nhận thấy điều đó qua lối so sánh. Nhưng lạ hơn là hành vi của nàng Tựa vai chồng dưới bóng trăng thâu. Người đàn bà Phương Đông mẫu mực, hiền thục là ke lo phận sự nàng không sửa túi cho chồng và cũng chỉ quen với việc cử án tề mi đâu có dám 'tựa vai chồng để cùng ngồi ngắm tráng một cách vừa thiếu ý tứ vừa vô lè' như vậy? ơ đây, thậm chí, còn ngồi ngay trước sự quan sát của tất cả mọi người. Nhưng không thể phủ nhận đó là một cảnh rất đẹp. Màu trắng của áo, ánh sáng cua vầng trăng và cử chỉ tựa vai chồng thật trữ tình, lãng mạn. Chắc chắn, đăng sau những nét bút miêu tả đó là cái nhìn ngạc nhiên, thú vị. Thú vị hơn vẫn là những cử chỉ thân mật, tự nhiên của nàng:

Ngó thuyền Nam thấy đèn le lói,

Kéo áo rầm rì nói với nhau

Nhưng tất cả những điều đó chưa gây ngạc nhiên bằng những hình ảnh tiếp theo sau này:

Hững hờ cốc sữa biếng cầm tay,

Gió bể, đêm sương thổi lạnh thay!

Uốn éo đòi chồng năng đỡ dậy.

Chỉ thấy ở người thiếu phụ ấy vẻ kiều mị, duyên dáng. Cả cái nghiêng mình nũng nịu đòi sự chăm sóc chiều chuộng của chồng vẫn thật dễ thương. Tất cả đều được quan sát bằng một đôi mắt thật tinh tế và một ngòi bút miêu tả thật khách quan. Sự đồng cảm, tán thưởng chỉ được bộc lộ một cách kín đáo. Chính vì vậy mà hình tượng người đàn bà Tây dương trong bài thơ mới mang những nét riêng đặc sắc. Ngày nay, những lời nói, cử chỉ hồn nhiên kia đối với con người Việt Nam hiện đại là quá đỗi bình thường, thậm chí chẳng có mấy ý nghĩa đặc biệt. Nhưng với thời bấy giờ, khi mà xã hội phong kiến Việt Nam còn bó buộc trong những quan điểm bảo thủ, thiển cận trong những lối tự tôn lố bịch, mù quáng thì việc tán thưởng, đồng tình với một vẻ dẹp xa lạ như thế là hành vi nghệ thuật thể hiện một quan niệm mới mẻ, hiện đại.

Những mạch cảm xúc trữ tình của tác giả không dừng lại ở đó. Toàn bộ bức tranh đầy gợi cảm về hình ảnh người thiếu phụ Tây dương, về cặp vợ chồng người Phương Tây dù được miêu ta rất thực, rất sinh động vẫn có vẻ như đóng vai trò của những chi tiết nhằm dồn nén cảm xúc để đến dòng thơ cuối cùng, con người ôm nỗi thống khố rối bời và đặc biệt kín đáo ấy không thể kìm giữ được nữa, phải thốt lên lời tự than:

Biết đâu nỗi khách biệt li này!

Tưởng đâu là nỗi sầu xa xử. Không phải, nỗi biệt li được gợi lên từ cảnh hạnh phúc, trìu mến của lứa đôi. Và ta có thể đoán được dòng chảy ngầm của tâm trạng tác giả: nỗi khát khao hạnh phúc gia đình, nỗi nhớ nhung tình chồng vợ. Sự giãi bày này lại cũng là một phương diện bộc lộ vẻ đẹp nhân văn sâu sắc trong tâm hồn người trí thức ngang tàng, phóng túng.

Video bài giảng Ngữ văn 11 Dương phụ hành - Kết nối tri thức

1 49 lượt xem