Tác giả tác phẩm Cây tre Việt Nam (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 7 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Cây tre Việt Nam Ngữ văn lớp 7 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 7. Mời các bạn đón xem:

1 75 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Cây tre Việt Nam - Ngữ văn 7

I. Tác giả

- Tên thật: Hà Văn Lộc (1925-1991)

- Quê quán: quận Tây Hồ, Hà Nội.

- Sinh ở thành phố Nam Định.

- Nhà báo chuyên viết báo, bút kí, thuyết minh phim.

Cây tre Việt Nam - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Cây tre Việt Nam

Cây tre là người bạn thân của nông thôn Việt Nam, bạn thân của nhân dân Việt Nam.

Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là cây tre nứa. Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, luỹ tre thân mật làng tôi… đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn.

Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn. Rồi tre lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Nhà thơ có lần ca ngợi:

Bóng tre trùm mát rượi.

Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân:

Cánh đồng ta năm đôi ba vụ
Tre với người vất vả quanh năm.

Tre với người như thế đã mấy nghìn năm. Một thế kỷ “văn minh”, “khai hoá” của thực dân cũng không làm ra được một tấc sắt. Tre vẫn phải còn vất vả mãi với người. Cối xay tre nặng nề quay, từ nghìn đời nay, xay nắm thóc.

Trong mỗi gia đình nông dân Việt Nam, tre là người nhà, tre khăng khít với đời sống hàng ngày.

Giang chẻ lạt, buộc mềm, khít chặt như những mối tình quê cái thuở ban đầu[6] thường nỉ non dưới bóng tre, bóng nứa:

Lạt này gói bánh chưng xanh
Cho mai lấy trúc, cho anh lấy nàng…

Tre còn là nguồn vui duy nhất của tuổi thơ. Các em bé còn có đồ chơi gì nữa ngoài mấy que chuyền đánh chắt bằng tre.

Tuổi già hút thuốc làm vui. Với chiếc điếu cày tre là khoan khoái. Nhớ lại vụ mùa trước, nghĩ đến những mùa sau, hay nghĩ đến một ngày mai sẽ khác…

Suốt một đời người, từ thuở lọt lòng trong chiếc nôi tre, đến khi nhắm mắt xuôi tay, nằm trên giường tre, tre với mình, sống có nhau, chết có nhau, chung thuỷ.

Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất.

Người xưa có câu: “Trúc dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng”. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến, tre lại là đồng chí chiến đấu của ta. Tre vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc.

Buổi đầu, không một tấc sắt trong tay, tre là tất cả, tre là vũ khí. Muôn ngàn đời biết ơn chiếc gậy tầm vông[10] đã dựng lên thành đồng Tổ quốc[11]! Và sông Hồng bất khuất có cái chông tre.

Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!

Nhạc của trúc, nhạc của tre là khúc nhạc của đồng quê. Nhớ một buổi trưa nào, nồm nam cơn gió thổi, khóm tre làng rung lên man mác khúc nhạc đồng quê.

Diều bay, diều lá tre bay lưng trời…
Sáo tre, sáo trúc vang lưng trời…
Gió đưa tiếng sáo, gió nâng cánh diều

Trời cao lồng lộng, đồng ruộng mênh mông hãy lắng nghe tiếng hát giữa trời cao của trúc, của tre…

“Tre già măng mọc”. Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Các em, các em rồi đây lớn lên, sẽ quen dần với sắt, thép và xi măng cốt sắt.

Nhưng, nứa, tre sẽ còn mãi với các em, còn mãi với dân tộc Việt Nam, chia bùi sẻ ngọt của những ngày mai tươi hát, còn mãi với chúng ta, vui hạnh phúc, hoà bình.

Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi.

Cây tre Việt Nam! Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm. Cây tre mang những đức tính của người hiền là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.

III. Tác phẩm Cây tre Việt Nam

1. Thể loại

Bút kí

2. Xuất xứ

- Viết năm 1955.

- Là lời bình cho bộ phim cùng tên của các nhà điện ảnh Ba Lan.

3. Phương thức biểu đạt

Thuyết minh + Biểu cảm + Miêu tả + Nghị luận

4. Ý nghĩa nhan đề

Cây tre Việt Nam nói lên sự gắn bó thân thiết và lâu đời với con người Việt Nam. Tre đã giúp nhân dân Việt Nam trong đời sống, sản xuất và chiến đấu. Cây tre đã trở thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Tác giả mượn hình ảnh “cây tre Việt Nam” để nói lên những suy nghĩ, cảm xúc của mình về con người Việt Nam; ca ngợi những phẩm chất cao đẹp: anh dũng, cần cù, bền bỉ, thủy chung, sống có nghĩa, có tình…

5. Tóm tắt tác phẩm Cây tre Việt Nam

Trong đời sống chính trị cũng như trong đờ sống sinh hoạt, Bác Hồ là người vô cùng giản dị và khiêm tốn. Con người Bác giản dị từ bữa cơm, đồ dùng, cái nhà và lối sống. Bác làm rất nhiều việc và việc gì Bác làm dc thì Bác không nhờ tới người giúp. Đời sống vật chất giản dị càng hòa hợp với đời sống tâm hồn phong phú, với những tư tưởng, tình cảm, giá trị tinh thần cao đẹp. Giản dị trong đời sống, trong quan hệ với mọi người và Bác còn giản dị trong cả sáng tác vì muốn quần chúng nhân dan dễ tiếp nhận.

6. Bố cục tác phẩm Cây tre Việt Nam

- Phần 1: (Từ đầu đến 'chí khí như người'): Giới thiệu chung về cây tre.

- Phần 2: (Tiếp theo đến 'chung thủy'): Tre gắn bó với con người trong cuộc sống, lao động, sản xuất.

- Phần 3: (Tiếp theo đến 'tre, anh hùng chiến đấu'): Tre sát cánh với con người trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương, đất nước.

- Phần 4: (Còn lại): Tre vẫn là người bạn đồng hành cùng dân tộc ta trong hiện tại và tương lai.

7. Giá trị nội dung tác phẩm Cây tre Việt Nam

- Cây tre là người bạn thân thiết lâu đời của người nông dân và nhân dân Việt Nam.

- Cây tre có vẻ đẹp bình dị và nhiều phẩm chất quý báu. 

- Cây tre đã thành một biểu tượng của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Cây tre Việt Nam

- Nhiều chi tiết, hình ảnh chọn lọc mang ý nghĩa biểu tượng.

- Sử dụng rộng rãi và thành công phép nhân hóa, lời văn giàu cảm xúc và nhịp điệu.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Cây tre Việt Nam

1. Vẻ đẹp của cây tre

- Hình dáng:

+ Mọc thẳng, dáng mộc mạc, màu tươi nhũn nhặn

- Phẩm chất:

+ Vào đâu tre cũng sống, xanh tốt…

+ Cứng cáp, dẻo dai, thanh cao chí khí…

+ Thẳng thắn, bất khuất, anh hùng…

- Nghệ thuật: tính từ, ẩn dụ, nhân hóa.

⇒ Sức sống mãnh liệt, vẻ đẹp đơn sơ, khỏe khoắn của tre gắn với khí phách, phẩm chất kiên cường của người dân Việt Nam.

2. Cây tre với người dân Việt Nam

- Trong đời sống và lao động sản xuất.

+ Tre có mặt ở khắp mọi nơi trên đất nước.

. Trẻ thơ: chơi chắt, chơi chuyền

. Tuổi già: điếu cày

. Niềm vui: Thuở lọt lòng nằm trong nôi tre.

. Nỗi buồn: Chết, nằm trên giường tre.

. Làm ăn: Tre giúp người trăm nghìn công việc./ Tre dựng nhà cửa, vỡ ruộng…/Tre ăn ở với người…/ Tre là cánh tay…

- Nghệ thuật: nhân hóa, ẩn dụ, xen thơ vào văn.

⇒ Tre là phương tiện phục vụ lao động. Tre là bạn thân chung thủy của nhân dân Việt Nam!

- Trong chiến đấu:

+ Tre:

+ Gậy, chông…

+ Chống lại quân thù…

+ Xung phong …

+ Hy sinh…

- Nghệ thuật: nhân hóa, ẩn dụ, liệt kê, động từ.

⇒ Tre lại là vũ khí - là đồng đội - là đồng chí của ta!

- Trong hiện tại và tương lai:

+ Tre là âm nhạc của làng quê.

+ Búp tre là biểu tượng trên huy hiệu Đội.

+ Nghệ thuật: điệp ngữ, câu cảm, câu khẳng định. 

⇒ Cây tre mãi là người bạn thân thiết của nhân dân Việt Nam, là biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam!

V. Các bài văn mẫu

Phân tích tác phẩm Cây tre Việt Nam

Đề bài: Phân tích bài Những cánh buồm

Bài tham khảo 1

Cây tre từ lâu đã vô cùng gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam. Khi đến với tác phẩm “Cây tre Việt Nam”, Thép Mới đã cho người đọc thấy được sự gắn bó của cây tre trong cuộc sống của con người Việt Nam.

Trước hết, cây tre có mặt ở mọi nơi trên đất nước ta và có những phẩm chất đáng quý. Tre là người bạn thân của nông dân, nhân dân Việt Nam. Nhà văn đã khắc họa những đặc điểm của cây tre: “Vào đâu tre cũng sống, cũng xanh tốt”, “Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhặn”. Khi lớn lên, cứng cáp, dẻo dai, vững chắc. Qua đó thấy được, cây tre mang vẻ đẹp thanh cao, giản dị, chí khí như con người.

Không chỉ vậy, tre còn gắn bó với con người trong cuộc sống hàng ngày và trong lao động. Sự gắn bó đó được nhà văn khắc họa vô cùng cụ thể. Tre trùm lên âu yếm bản làng, xóm, thôn. Dưới bóng tre, giữ gìn một nền văn hóa lâu đời, con người dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre là cánh tay của người nông dân. Cây tre vất vả mãi với người cối xay tre nặng nề quay. Tre là người nhà, khăng khít với đời sống hằng ngày. Tre buộc chặt những tình cảm chân quê. Tre là niềm vui của tuổi thơ, của người già. Những hình ảnh nhân hóa đã làm tăng thêm tính gần gũi, thân quen của trẻ với nhân dân. Đồng thời là phẩm chất ngay thẳng, cống hiến hết mình của tre đối với nhân dân, đất nước.

Tre còn sát cánh trong cuộc chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Nhân dân ta đã dùng tre làm vũ khí đánh giặc. Trong quá khứ, chúng ta không thể quên được hình ảnh Thánh Gióng đã nhổ bụi tre để đánh đuổi giặc Ân. Ở hiện tại, tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre đã giúp nhân dân ta giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh. Thậm chí tre còn “hy sinh để bảo vệ con người”. Cuối cùng, tre là người bạn của dân tộc ta. Tre vẫn còn nguyên vị trí trong tương lai khi đất nước đi vào công nghiệp hóa: tre vẫn là bóng mát, tre mang khúc nhạc tâm tình. Tre mang những đức tính của người hiền, là tượng trưng cao quý của dân tộc Việt Nam.

Đến đoạn cuối cùng, nhà văn đã khẳng định vị trí của cây tre khi đất nước bước vào thời kỳ công nghiệp hóa: khi mà sắt, thép và xi măng cốt sắt sẽ dần dần trở nên quen thuộc, sẽ thay thế một phần cho tre nứa. “Nhưng tre nữa sẽ vẫn còn mãi. Nứa tre vẫn làm bóng mát, làm cổng chào, và hóa thân vào âm nhạc, vào nét văn hóa trong chiếc đu ngày xuân dướn lên bay bổng”.

Để khắc họa được hình ảnh cây tre Việt Nam, Thép Mới đã sử dụng nhiều chi tiết, hình ảnh chọn lọc mang ý nghĩa biểu tượng, sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa, lời văn giàu cảm xúc và nhịp điệu…

Như vậy, tác phẩm “Cây tre Việt Nam” đã khắc họa được hình ảnh cây tre với sự gắn bó mật thiết trong cuộc sống của con người Việt Nam. Tre đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh và con người Việt Nam.

Bài tham khảo 2

Đã từ lâu, cây tre trở thành một hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của con người. Chính vì vậy, Thép Mới đã khắc họa sự gắn bó qua tác phẩm “Cây tre Việt Nam”.

Trong thế giới thiên nhiên rộng lớn, cây cối xanh tươi, giữa muôn ngàn những màu xanh cây lá, tre vẫn giữ một vị trí vô cùng nổi bật với sự thân thuộc mà nó mang đến: “Nước Việt Nam xanh muôn ngàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa”. Tre cũng là loài cây chẳng kén đất sống hay ngại thời tiết nắng gió nhọc nhằn. Dù ở bất kì nơi đâu, tre vẫn vươn thẳng mình phía trước, sống xanh tốt, dẫu cho đó là chốn đất cằn đá sỏi hay nơi màu mỡ tốt tươi. Cũng chính bởi thế mà khắp mọi miền đất nước, đâu đâu cũng thấy bóng dáng tre xanh: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi... đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn”. Những câu văn đầu như lời giới thiệu đầy nhẹ nhàng mà bộc bạch tình cảm thắm thiết, chân thành của tác giả dành cho cây tre.

Tre càng gần gũi với con người hơn bao giờ hết bởi những phẩm chất đáng quý của nó đều gắn với những đức tính tốt đẹp của con người: “Tre, nứa, trúc, mai, vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng. Vào đâu tre cũng sống, ở đâu tre cũng xanh tốt…”. Những phẩm chất dẻo dai, thích nghi với hoàn cảnh, ngay thẳng, bản lĩnh cứng cáp được trẻ hun đúc từ thế hệ này sang thế hệ khác đáng ngưỡng mộ biết bao. Không chỉ vậy, trẻ còn mang khí chất đầy hấp dẫn, thu hút. Chỉ với vài câu văn ngắn mà tác giả đã khẳng định được vẻ đẹp cả về sức vóc và phẩm chất của tre đầy đúng đắn, thể hiện được sự tinh tế trong cách quan sát và cảm nhận của tác giả, tre trở thành một đại diện cho vẻ đẹp, những phẩm chất đầy cao quý của dân tộc Việt Nam.

Trong đời sống con người, trẻ luôn bên cạnh, gắn liền với nhân dân từ xưa tới nay: “Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái đình mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hoá lâu đời. Dưới bóng tre xanh, đã từ lâu đời, người dân cày Việt Nam dựng nhà, dựng cửa, vỡ ruộng, khai hoang. Tre ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp. Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau. Tre là cánh tay của người nông dân”. Điệp ngữ “bóng tre”, “dưới bóng tre”, “tre” được lặp đi lặp lại càng làm rõ sự khăng khít, gắn bó bên nhau giữa trẻ và người.

Tre gắn bó với con người trong cuộc đời như một điều gì khó có thể chia cắt được. Từ tuổi ấu thơ, tre là nguồn vui trong mỗi trò chơi dân gian chơi chuyền, đánh thẻ. Lúc trưởng thành, tre bên cạnh con người vào ruộng, ra nương, khi về già, tre lại là bạn tâm giao trong chiếc điếu cày khoan khoái. Tre chung thủy với người như dân làng thủy chung, gắn bó với quê hương mình vậy.

Không chỉ vậy, tre còn gắn bó trong chiến đấu. Tre cũng mang trong mình những phẩm chất của một người hùng bất khuất, kiên cường: “Như tre mọc thẳng, con người không chịu khuất”. Tre vào chiến trận cũng gan dạ, kiên cường oanh liệt, lấy thân mình giữ làng nước quê hương: “Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép của quân thù. Tre xung phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín. Tre hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre, anh hùng chiến đấu!”. Tre - người hùng chiến trận, lời tác giả viết đều chân thực, dựa trên lịch sử và thực tế vì vậy mỗi từ, mỗi chữ đều lay động tâm hồn người đọc.

Đoạn kết bài là hình ảnh của tre trong cuộc sống hiện đại. Khi mà những xi măng, cốt sắt ngày càng nhiều thì tre vẫn giữ một vị trí đặc biệt: “Ngày mai, trên đất nước này, sắt, thép có thể nhiều hơn tre, nứa. Nhưng, trên đường trường ta dấn bước, tre xanh vẫn là bóng mát. Tre vẫn mang khúc nhạc tâm tình. Tre sẽ càng tươi những cổng chào thắng lợi. Những chiếc đu tre vẫn dướn lên bay bổng. Tiếng sáo diều tre cao vút mãi”.

Lời khẳng định đầy thiết tha ấy đã cho thấy một sức sống trường tồn, vĩnh cửu của tre trong đời sống dân tộc Việt Nam. Tác phẩm với ngôn ngữ mộc mạc, chân tình, lối viết giản đơn nhưng đã mang lại cho người đọc những tình cảm tốt đẹp. Có lẽ phải trân quý và yêu lắm cây tre Việt Nam tác giả mới viết nên những dòng văn thấm đẫm cảm xúc như thế.

1 75 lượt xem