Tác giả tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 7 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà Ngữ văn lớp 7 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 7. Mời các bạn đón xem:

1 50 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn 7

I. Tác giả

Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

Huỳnh Như Phương sinh năm 1955, quê quán ở Quang Ngãi

- GS Huỳnh Như Phương là nhà giáo chuyên giảng dạy lý thuyết văn học ở Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG TP.HCM, đồng thời là nhà nghiên cứu, phê bình văn học trước năm 1975.

- Lúc chưa tới tuổi 20, Huỳnh Như Phương đã có bài đăng trên các tạp chí có khuynh hướng thiên tả lúc đó như Trình Bầy, Đối Diện.

II. Đọc tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (Geneve) được kí kết, cuối năm 1954 – đầu năm 1955, ở quê tôi gần một nửa số gia đình có người thân đi tập kết ra miền Bắc. Không khi làng quê chủng xuống vì tình cảnh kẻ Bắc người Nam. Những người đàn bà tiên chồng, tiên con ra đi, mắt đầm lệ, hẹn hai năm trở về mà lòng còn nghi ngại.

Chính quyền quốc gia tiếp thu từ vĩ tuyến 17 trở vào và những người con đất Quảng từng hiển tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến chống Pháp đành phải lia bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, theo đơn vị vào Quy Nhơn, xuống chiếc tàu Ba Lan đang đợi sẵn. Nhiễu người ra đi khi vừa lập gia đình, để lại những người vợ trẻ, con người mang bào thai trong bụng.

Nhà ngoại tôi năm người ra đi trên những chuyến tàu năm ấy: ông ngoại, hai người con trai và hai người con rẻ. Mới một tháng trước đỏ, nhà ngoại rộn rã với đám cưới của đi Bảy. Dượng Bảy người Tam Kỳ mỏ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dị, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới. Chỉ mặt tháng sau là đơn vị chuyên đi, đôi người đôi ngả.

Ra miên Bắc rồi vào lại miền Nam chiến đấu, đường. Bảy văn tìm cách liên lạc với gia đình. Thỉnh thoảng Chú ý ngôi kể của văn bản một lá thư gói trong bọc mi lông bẻ tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dị. Năm dượng đi, dị tron 20 tuổi. Suốt 30 năm sau đỏ, có những người ngõ ý dạm hỏi, đi vân không lung lạc”, với niềm tin sẽ có ngày được trở vẻ. Gần Cuối cuộc chiên tranh, tin tức của đường về nhà thường xuyên hơn. Hình như lời cầu nguyện của di linh ứng để dượng trảnh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.

Nhà tôi gần đường số 1. Môi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, đi tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ” ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xm chỗ chủ quân Tháng 4 năm 1975, những đoản xe Mô-lô-tô-va (Molotova) nói tiếp nhau chạy ngang trước nhà tôi đẻ chuyên quân vào mặt trận phía Nam. Dượng tôi ở trên một chuyến xe đó. 20 năm, đường không quên người xưa nhưng đã quên cảnh cũ Khi đến địa phận huyện Mô Đức, đương đảo mắt tìm xóm nhà quê vợ nhưng không nhận ra vì cảnh vật đối thay. Đến khi dừng lại hỏi nhà, thi xe đã chạy vượt qua gần Tim cây số. Trên đường tiên quân, đấu thể quay xe trở lại, dượng chỉ kịp nhờ một người đi đường báo tm cho gia đình và gin lặng di tôi một chiếc nón bài thơ mua được trên đường hành quân.

Những ngày sau đó, gia đình tôi náo nức trong niềm vui chờ đợi. Ông ngoại tôi mắt sớm trên miền Bắc, ba tôi hì sinh trên chiến trường đã tám năm, nổi đau dân nguôi ngoai. Nhà có năm người ra đi, ba người trở vẻ, cũng còn là may mắn. Di Bảy tôi lại ngồi trước hiên nhà mỗi mắt nhìn ra đường cái Nhưng hai cậu tôi lần lượt trở về mà dượng Đây vân không tin tức. Những chiếc xe chở bộ đội hỏi hương chạy qua không dừng lại Gia đình do hỏi các nơi, mãi đến cuối năm ]975 mới nhận giấy bao tử: dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía đông bắc Sài Gòn), chỉ mươi ngày trước khi chiên tranh ngưng tiếng súng.

Như trong một câu chuyện có, người kị sĩ ra đi trên lưng chiến mã, những ngày chiến thắng chỉ cỏ chiến mã trở về mà không có bóng dáng người trên lưng ngựa. Di tôi nén nỗi đau vào bên trong. Nhà tôi lập bàn thờ cho dượng. Tôi đã nhờ người vẻ tân xã Tam Thanh, huyện Tam Kỷ, từ Quảng Nam tìm gia định dượng, nhưng không ai còn nhớ tên người lính cũ Nguyễn Ngọc Linh. Gần đây dò tìm danh sách liệt sĩ trên mạng, cũng không có thông tin gì để tìm mộ phần của đường.

Ngày hòa bình, đi tôi đã qua tuổi 40. Vẫn có người đàn ông để ý đến đi, nhưng lòng dì không còn rung động. Bà ngoại tôi ngày một già yêu Những người con trai của bảo vẻ thăm ít ngày rồi lại đi ra thành phố. Những người con gái theo chồng, theo con. Chỉ còn mình đi Báy ở lại chăm sóc bả, trồng cơi nhà thờ giữa khu rỡn Ít bàn tay vì xi,

Bà ngoại mất, mấy năm trước, đi vào Thành phố Hồ Chí Minh sóng với em, nhưng được it lâu, nhở quẻ, lại về sống một mình trong ngồi nhà cũ Đi lại tiếp tục những bữa cơm vắng lặng như mây mươi năm trước. Và mỗi buổi chiều muộn, đi lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong võ vọng. Đêm đêm, ngọn đèn dầu trên gian thờ lập lòe theo tiếng kêu của thạch sung, có cảm giác như thời gian ngưng đọng đã từ lầu lắm. Mỗi lần về thăm, ngồi bên mâm cơm đạm bạc với di, tôi chợt nghĩ nếu ngày đỏ di đi bước nữa, thị liệu hãy giờ đi có được hưởng hạnh phúc hay không.

Mưa lụt năm ngoài, sau những trận mưa đữ đội, vững quê tôi nước trản trắng trời trắng đất. Nhà ngoại tôi nước ngập ngang cửa số, gân bằng trận lụt năm Giáp Thin (1964). Nhớ hồi đó, tôi còn nhỏ, nhà tôi đông người, thôn xỏm cho ghe đến tận nhà chuyền người và gia súc lên vùng đồi cao. Lần nảy, chỉ có đi Bảy với người châu gái, nửa đêm nước đẳng vào nhà bất thân, may có vải người bả con ở gân đên giúp đỡ kê bàn ghế đê có chỗ nằm cao hơn mặt nước, chờ đất trời thu nước xuống.

Mùa lũ dữ rồi cũng qua, vườn rau xanh trở lại. Những ngày này, đi tôi, bà Lê Thị Thỏa, một trong bao Người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay dì tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà Bảy gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyện cầu hồn thiêng những người đã ngã xuống độ trí” cho đi bình an, trường thọ.

III. Tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

1. Thể loại

Tản văn

2. Phương thức biểu đạt

Tự sự + Biểu cảm

3. Tóm tắt tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Nhân vật chính trong văn bản là dì Bảy, người phụ nữ với số phận bất hạnh khi có chồng đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng dì bảy mới lấy nhau vỏn vẹn có một tháng. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai. Dì Bảy là đại diện cho vẻ đẹp của những người phụ nữ tần tảo, hi sinh hạnh phúc cá nhân của mình cho đọc lập và tự do của dân tộc.

Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

4. Ý nghĩa nhan đề

Thông qua nhan đề, ta cũng thấy được phần nào số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai

5. Bố cục tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Chia văn bản làm 3 đoạn:

- Đoạn 1: Từ đầu đến “đôi người đôi ngả”: Tình cảnh ly tán “kẻ Bắc người Nam” của những gia đình có người tập kết ra Bắc.

- Đoạn 2: Tiếp theo đến “tìm mộ phần của dượng”: Tình cảnh đáng thương của dì Bảy khi dượng Bảy ra chiến trận.

- Đoạn 3: còn lại: Tấm lòng thủy chung, son sắt của Dì

6. Giá trị nội dung tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

- Phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác.

- Ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

- Ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc.

- Cách miêu tả nhân vật chân thật, sinh động.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

1. Nhân vật dì Bảy

a. Số phận đáng thương

- Mới chồng đã phải chia li

- Chồng dì đi tập kết ra Bắc.

b. Phẩm chất cao đẹp

- Yêu thương chồng

+ Luôn chờ đợi dượng Bảy

+ Cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.

- Thủy chung, tình nghĩa

+ Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về.

+ Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi 40. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động. 

→ Dù cho có cô đơn, lẻ loi dì Bảy vẫn một lòng thủy chung với người chồng đã khuất của mình

→ Dì Bảy là người phụ nữ đức hạnh, đại diện cho phẩm chất của những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng hi sinh cả thanh xuân, tuổi trẻ của mình, nén nỗi đau cá nhân vào bên trong, âm thầm góp sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Nhân vật dượng Bảy

a. Hoàn cảnh

- Dượng Bảy người Tam Kỳ (Quảng Nam), mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới

b. Số phận đau thương

- Chỉ một tháng sau khi lấy vợ đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.

- Dượng hi sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng.

→ Hi sinh hạnh phúc để ra đi khi Tổ quốc cần.

c. Yêu thương gia đình.

- Thỉnh thoảng dượng lại gửi thư về, lá thư được gói trong bọc ni-lông bé tí

- Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn

- Khi bị lỡ mất chuyến xe về thăm gia đình. Dượng nhờ một người đi đường báo tin cho gia đình và gửi tặng dì chiếc nón bài thơ.

→ Dượng Bảy luôn nhớ tới gia đình, luôn nhớ tới người vợ tảo tần, phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả.

3. Thông điệp, ý nghĩa của văn bản

- Bài tản văn cho người đọc thấy sự hi sinh thầm lặng mà lớn lao của những người phụ nữ trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Vấn đề ấy gợi cho em suy nghĩ khi được sống trong hòa bình cần phải biết ơn những người đã ngã xuống, hi sinh để bảo vệ Tổ quốc.

V. Các bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích bài Người ngồi đợi trước hiên nhà

Bài tham khảo 1

Đầu tiên ta đi vào hoàn cảnh chia ly của đôi vợ chồng dì dượng Bảy. Năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết khiến cho những người con ở Quảng Nam phải ra Bắc sống và làm việc. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau mới được một tháng trời thì người chồng phải tập quân ra Bắc, hoàn cảnh chưa được hạnh phúc bao lâu mà đã phải nói lời từ biệt. Không chỉ riêng gì dì dượng Bảy mà tất cả mọi người đều vậy, chiến tranh đã khiến cho các gia đình lâm vào cảnh ly tán, vợ tiễn chồng, tiễn con lên đường “đôi người đôi ngả”. Cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ của đất nước ta đã khiến dượng Bảy và nhiều người con đất Quảng khác phải lên đường gánh vác trên vai trách nhiệm to lớn với đất nước, tất cả cho thấy chiến tranh thật tàn nhẫn, nó đã chia cắt hạnh phúc gia đình lứa đôi đẩy cuộc sống của người dân vào hoàn cảnh cô đơn chia cắt.

Đau lòng vì phải chia ly là vậy nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng cong dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng là một lá thư gói trong bọc ni lông…”, “gần cuối cuộc chiến tranh tin tức của dượng về nhà thường xuyên hơn”, “… dượng nhờ người báo tin cho gia đình và gửi tặng dì tôi một chiếc nón bài thơ mua được trên đường hành quân.' Mặc dù chiến tranh đã chia cắt nhau là vậy nhưng họ vẫn luôn hướng về nhau, nó có thể chia cắt được thể xác chứ tình cảm thì không. Dì Bảy vẫn luôn chờ đợi dượng Bảy suốt hai mươi năm trời với niềm tin nung nấu rằng chồng mình sẽ quay trở về dù có người ngỏ ý dạn hỏi. Dì Bảy hết sức yêu thương chồng: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”. Thế rồi chuyện gì đến cũng vẫn sẽ đến, chiến tranh đã cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: 'dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng'. Đến đây tác giả đã bộc lộ cảm xúc xót thương cho nhân vật dì Bảy trước sự hi sinh của dượng Bảy. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, 'mỏi mắt nhìn ra đường cái' nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, 'mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử',. Bom đạn trong chiến tranh không những chia cắt con người mà còn cướp đi mạng sống của những người thân yêu, đẩy họ vào đau khổ tột cùng, để lại nỗi khổ đau, nhớ nhung cho những người ở lại như dì Bảy cũng như người dân Việt Nam ta lúc bấy giờ.

Dù dượng Bảy đã mất nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động.”, “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Qua lời kể của tác giả cho thấy tác giả đầy xót xa thương cảm. Đứa cháu thương cho người dì cô quạnh, đồng thời cũng cảm phục lòng chung thủy, kiên cường của người phụ nữ ấy. Tác giả thương cảm cho số phận của người dì, dì rất mực yêu thương chồng nhưng hoàn cảnh chiến tranh đã đẩy dì và thế chia ly và mất đi người chồng đầu gối tay kề với mình. Cuộc sống cô đơn lẻ loi trong những ngày bão lụt, không biết nương tựa vào ai. Dù vậy nhưng dì Bảy vẫn một lòng chung thủy với người chồng đã khuất của mình. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ Việt Nam ta với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hi sinh tình cảm cá nhân để góp phần vào nhiệm vụ lớn lao đối với Tổ quốc. Tác phẩm được kể theo ngôi thứ nhất, xưng là tôi. Đó chính là tác giả trong vai người cháu chứng kiến toàn bộ câu chuyện và kể lại khiến cho câu chuyện trở nên chân thật, khách quan hơn. Từ đó tác giả muốn lên án chiến tranh tàn khốc đã chia lìa và cướp đi sinh mạng của bao người dân ta, đồng thời để lại cho người ở lại nỗi đau buồn không gì có thể bù đắp được.

Với sự kết hợp của tự sự và biểu cảm, giọng kể đầy xúc cảm, tác giả Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc kể lại câu chuyện của dì dượng Bảy một cách chân thật nhất. Đồng thời tác giả muốn lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm chia cắt bao gia đình và nó đã cướp đi sinh mạng của bao con dân Việt Nam ta trong thời kỳ chống Mỹ, xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường, ca ngợi đức tính hy sinh cao cả mà thầm lặng của những người phụ nữ anh hùng dân tộc Việt Nam ta.

Bài tham khảo 2

“Người ngồi đợi trước hiên nhà” của tác giả Huỳnh Như Phương cũng là câu chuyện về tình yêu, sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian của con người trong và sau chiến tranh.

Tản văn là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa. Ngôi kể thứ nhất, xưng là “tôi” đã giúp cho những chi tiết, sự kiện trong truyện hiện lên chân thật, khách quan hơn.

Bối cảnh mở đầu của câu chuyện chính là những năm tháng đất nước đang chìm trong đau thương của chiến tranh. Sau khi hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, có biết bao người dân vì đấu tranh cho Tổ quốc mà phải rời xa quê hương. Trong đó, ở phía sau là hình bóng những người mẹ, người vợ, những đứa con. Gia đình dì Bảy và dượng Bảy cũng là một trong số đó. Họ lấy nhau mới được một tháng thì dượng Bảy đã phải đi tập kết ra Bắc. Với một cặp vợ chồng mới cưới, thì việc ở bên cạnh nhau cũng là một cách để có thể vun vén hạnh phúc gia đình và chăm lo, đỡ đần cho nhau trong những ngày tháng gian khó. Ấy vậy mà dì Bảy và dượng Bảy phải sống trong cảnh mỗi người một phương.

Cuộc chiến tranh đã gieo vào lòng người đi, kẻ ở muôn vàn nỗi xót xa. Dù đã bị chia cắt làm nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng còn dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”. Tình yêu thương thì vẫn luôn tồn tại nơi trái tim mỗi người, vượt lên khoảng cách địa lí.

Khi dượng ra đi, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm sau đó có những người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì giữ niềm tin có ngày chồng mình sẽ trở về. Thế mới thấy tình yêu thương dì Bảy dành cho chồng lớn lao và cao cả biết bao: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”.

Tưởng rằng sự chờ đợi sẽ được đền đáp xứng đáng, nhưng chiến tranh thật tàn độc khi cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: “dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng”. Nước mắt như nghẹn lại, tác giả không khỏi thương xót thay cho dì Bảy trước sự hi sinh của chồng. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, “mỏi mắt nhìn ra đường cái” nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, “mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử”. Chiến tranh thì ắt hẳn sẽ có những giọt máu rơi xuống nền đất, sẽ có những xác người bạt ngàn nẻo đường. Với dì Bảy, đó là một nhát dao cứa thẳng vào trái tim khi mất đi người mà mình đã yêu thương chờ đợi.

Không còn chồng ở bên cạnh, mất đi bóng hình thân thuộc ấy nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Nhân vật người cháu đã xót thương và cảm phục trước lòng chung thủy, kiên cường của dì.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và biểu cảm, ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc, Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc khắc họa chân dung dì Bảy và dượng Bảy trong hoàn cảnh bấy giờ một cách chân thực nhất. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là biểu tượng cao đẹp cho người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hy sinh tình cảm cá nhân để góp vào sự hòa bình Tổ quốc. Qua đó, tác giả đã phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác, đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.

1 50 lượt xem