Tác giả tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 7 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng Ngữ văn lớp 7 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 7. Mời các bạn đón xem:

1 224 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Người đàn ông cô độc giữa rừng - Ngữ văn 7

I. Tác giả

- Nhà văn Đoàn Giỏi (17/05/1925-02/04/1989), ông sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Nay thuộc xã Tân Hiệp, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang. Xuất thân trong một gia đình địa chỉ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.

- Là một nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.

- Các tác phẩm của Đoàn Giỏi thường viết về cuộc sống, thiên nhiên và con người ở Nam Bộ.

- Những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn bao gồm: 

+ Tập truyện dài: Đất rừng phương Nam (1957), Đất rừng phương Nam (1957), Cá bống mú (1956), Cuộc truy tầm kho vũ khí (1962);

+ Truyện ngắn: Hoa hướng dương (1960), Chú bé Hà Nội và chú ó lửa trên, Đồng Tháp Mười (1987), Người tù chính trị năm tuổi (1973);

+ Truyện ký: Ngọn tầm vông (1956), Trần Văn Ơn (1955), Người thủy thủ già trên hòn đảo lưu đày, Đèn tôi bay về Lục Hồ Chí Minh,…

+ Thơ: Giữ vững niềm tin (1954), Bến nước mười hai, Truyện thằng Cồi;

Người đàn ông cô độc giữa rừng - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

(1) Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. “A! Thế thì đến nhà chú Võ Tòng rồi!”. Tôi ngồi dậy, dụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình những khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu “ché… ét, ché… ét” trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: “Thằng bé của anh nó lên đấy!”.

- Vào đây, An! – Tía nuôi tôi gọi.

Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột và dừng lại chỗ cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên cà ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít. Chai rượu đã vơi và một đĩa khô nướng còn bày trên nền đất ngay dưới chân chủ và khách, bên cạnh hai chiếc nỏ gác chéo lên nhau.

(2) – Ngồi xuống đây, chú em!

Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa. Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka ki còn mới, nhưng coi bộ đã lâu không gặt (chiếc gầu lính Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ!

Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy. Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.

- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!

- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà! – Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi

Con vượn bạc má lại kêu “ché…ét, ché… ét” ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phức cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi lều. […] Mùi lông khét xông khói lâu ngày tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi “ục… ục…” trên bếp cà ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kì loài người mới tìm ra lửa vậy.

(3) Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước, gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó để làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. […] Một buổi trưa, gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chứa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên “Võ Tòng” hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa, gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy, lúc có chửa đứa đầu lòng, cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ rất mực ấy bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba toong đánh lên đầu gã. “Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà… thì số mày tới rồi!”. Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc, bó tay chịu tội.

Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ thì nghe tin vợ gã đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên “Võ Tòng” từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn rực trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mời năm sống trơ trọi giữa rừng, mặc dầu, cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác, thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chán như vậy…

(4) Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên Chú ý cách uống rượu ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe 'pưng... pưng...' rồi lại đặt xuống. Chú Võ Tòng rót rượu ra bát, uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi và nói:

– Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm, sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ! Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. [...]

Trong giọng nói bỡn cợt của chú Võ Tòng có pha đượm một nỗi buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.

– Chú em cầm hộ lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! – Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi. [...]

(5) Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây xung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi tôi:

- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.

Tía nuôi tôi vội đỡ lời:

- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín, tin có Trời, có Phật. Nhưng về cái gan dạ thì… chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.

- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.

Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa, nhe răng nháy nhó, dọa tôi. Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:

- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!

- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!

Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:

- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá! – Ờ, thể nào cũng có chứ! Chú nuôi đầy rừng, muốn con nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! – Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.

III. Tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

1. Thể loại

Tiểu thuyết

2. Xuất xứ

Đất rừng phương Nam là tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé tên An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ.

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự

4.  Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề văn bản gợi cho em suy nghĩ về một người đàn ông sống một mình giữa rừng hoang.

- Người đàn ông đó hẳn phải là người rất dũng cảm, khỏe mạnh mới có thể chống chọi lại thú dữ ở rừng.

- Người đàn ông sống giữa rừng cũng cho thấy tính cách không thích ồn ào, có phần lánh đời.

5. Tóm tắt tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

An và tía nuôi của mình cùng đến thăm chú Võ Tòng ở một căn lều giữa rừng U Minh. Tại đây cậu bé đã được nghe kể về cuộc đời đầy bất hạnh nhưng vô cùng mạnh mẽ của chú Võ Tòng. Chú bàn về việc dùng con dao và chiếc nỏ để giết giặc, sau đó chú trao lại chiếc nỏ cho cha của An. Hai cha con chia tay chú và hẹn ngày sẽ gặp lại.

6. Bố cục tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

Chia văn bản làm 3 đoạn

- Đoạn 1: từ đầu … “mới tìm ra lửa vậy.”: Hoàn cảnh gặp gỡ chú Võ Tòng và hai cha con An

- Đoạn 2: tiếp … “nói một cách chắc chắn như vậy.”: Câu chuyện về cuộc đời của chú Võ Tòng.

- Đoạn 3: Còn lại: Cuộc chia tay giữa hai cha con An và chú Võ Tòng.

7. Giá trị nội dung tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

- Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ của tía con An với chú Võ Tòng – người đàn ông cô độc giữa rừng.

-  Cuộc gặp gỡ ngắn ngủi đó cho người đọc thấy được tính cách, tinh thần kiên cường dũng cảm của những con người trong thời kì đất nước bị xâm chiếm.

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

- Ngôi kể: kết hợp ngôi kể thứ nhất với ngôi kể thứ ba → Ngôi kể thứ nhất giúp thể hiện rõ suy nghĩ, tình cảm của nhân vật, qua đó ta hiểu rõ nhân vật hơn. Tuy nhiên ở đây, khi kể lại lai lịch, xuất thân của chú Võ Tòng, tác giả đã kết hợp ngôi thứ ba để kể chuyện. Ngôi thứ ba giúp chúng ta hình dung được lai lịch của chú Võ Tòng, làm câu chuyện logic hơn.

- Ngôn ngữ: đậm chất Nam Bộ

- Từ ngữ Nam Bộ.

- Cách miêu tả phong cảnh, tính cách, nếp sinh hoạt của người Nam Bộ.

- Kết hợp giữa tự sự với miêu tả và biểu cảm.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Người đàn ông cô độc giữa rừng

Người đàn ông cô độc giữa rừng - SGK Ngữ văn 7 Cánh diều - YouTube

1. Nhân vật Võ Tòng

Ngoại hình

+ Cởi trần.

+ Mặc một chiếc quần ka ki còn mới nhưng coi bộ đã lâu không giặt.

+ Đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt ở bên hông.

+ Thắt cái xanh-tuya-rông.

→   Trang phục giống lính Pháp, vẻ ngoài có phần bặm trợn, bụi bặm nhưng cũng có phần gần gũi, thoải mái.

Lai lịch: bí ẩn

+ Không có tên tuổi, quê quán.

+ Sống cô độc một mình, không có ai làm bạn, giỏi võ

- Hoàn cảnh

+ Là người hiền lành, ở tận một vùng xa.

+ Có vợ con nhưng một lần đâm tên địa chủ ngang ngược, hống hách nên bị đi tù. Vợ làm lẽ cho tên địa chủ nhà giàu kia, con chết.

+ Khi ra tù, Võ Tòng bỏ làng ra đi đến đây.

+ Sống một mình nên kì hình dị tướng.

Tính cách: chất phác, thật thà, hào hiệp sẵn sàng giúp đỡ người khác

→  Mang những vẻ đẹp chất phác, phóng khoáng, đại diện cho những con người Nam Bộ.

2. Màu sắc Nam Bộ trong văn bản

- Một số yếu tố (ngôn ngữ, phong cảnh, tính cách con người, nếp sinh hoạt,...) trong văn bản cho thấy tiểu thuyết của Đoàn Giỏi mang đậm màu sắc Nam Bộ:

+ Ngôn ngữ: sử dụng nhiều từ ngữ địa phương (tía, má, khô nai, xuồng,...)

+ Phong cảnh: sông nước, rừng hoang sơ

+ Tính cách con người: thẳng thắn, bộc trực, gan dạ, tình cảm

+ Nếp sinh hoạt: đi xuồng, ăn ở phóng khoáng

V. Các bài văn mẫu

Người đàn ông cô độc giữa rừng - Đoàn Giỏi (Ngữ Văn 7 Cánh Diều) - YouTube

Đề bài: Phân tích bài Người đàn ông cô độc giữa rừng

Bài tham khảo 1

Đoàn Giỏi là một nhà văn thường viết về thiên nhiên, con người Nam Bộ. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến tiểu thuyết Đất rừng phương Nam. Văn bản “Người đàn ông cô độc giữa rừng” trích trong cuốn tiểu thuyết này.

Đất rừng phương Nam là tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi viết về cuộc đời của cậu bé An. Bối cảnh của tiểu thuyết là miền Tây Nam Bộ, Việt Nam vào những năm 1945, sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm chiếm Nam Bộ. Đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng” kể về việc cậu bé An theo tía nuôi đến thăm Võ Tòng. Không ai biết tên tuổi, lai lịch của Võ Tòng. Chỉ biết rằng mười mấy năm về trước, một mình chú bơi xuồng đến che lều ở nơi rừng hoang nhiều thú này và từng đánh bại một con hổ. Một lần, Võ Tòng bị tên địa chủ vu oan cho tội ăn trộm. Chú một mực cãi lại, bị tên địa chủ đánh. Chú vô tình chém bị thương tên địa chú, nhưng không trốn chạy mà đường hoàng đến chịu tội. Khi trở về thì nghe tin vợ đã lấy tên địa chủ kia, còn đứa con trai độc nhất thì đã chết, Võ Tòng liền bỏ làng đi. Ở cuối đoạn trích, Võ Tòng đã đưa cho tía nuôi An những mũi tên tẩm độc để phòng thân cũng là để giết chết kẻ thù.

Về nội dung, “Người đàn ông cô độc giữa rừng” đã khắc họa vô cùng chân thực khung cảnh núi rừng rộng lớn, hoang sơ. Cùng với đó, nhân vật Võ Tòng là nhân vật trung tâm đã đại diện cho tính cách tiêu biểu của con người Nam Bộ hồn hậu, chất phác và trọng nghĩa tình. Về nghệ thuật, nhà văn đã miêu tả thành công nhân vật Võ Tòng bằng cách sử dụng sử dụng ngôi kể một cách linh hoạt (ngôi kể thứ nhất - cậu bé an, ngôi kể thứ ba). Cách kể này cho người đọc một cái nhìn đa chiều về Võ Tòng. Trong mắt cậu bé An, chú Võ Tòng là người cởi mở, phóng khoáng, vui tính. Trong mắt người kể chuyện và người dân, Võ Tòng là một người gan dạ, có phần ngang tàng, liều lĩnh nhưng vô cùng tốt bụng và đáng quý. Tác giả sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, giản dị và mang đậm màu sắc Nam Bộ.

Với đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, tác giả đã ca ngợi nhân vật Võ Tòng với phẩm chất hiền lành, chất phác nhưng vô cùng mạnh mẽ - đại diện cho phẩm chất của con người Nam Bộ, cùng với đó là vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Nam Bộ hiện lên đầy chân thực, sống động.

Bài tham khảo 2

Trong đoạn trích “Người đàn ông cô độc giữa rừng”, nhà văn Đoàn Giỏi đã khắc họa hình ảnh Võ Tòng - một nhân vật có tính cách phóng khoáng, trượng nghĩa, lại có chút ngang tàng, bụi bặm.

Tên gọi Võ Tòng, gợi nhắc đến nhân vật cùng tên trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Thủy hử” của tác giả Thi Nại Am. Trong đoạn trích “Đi lấy mật” cũng có đoạn giải thích về nguồn gốc của cái tên Võ Tòng. Người dân trong vùng không ai biết tên thật của Võ Tòng là gì. Họ chỉ biết rằng từ mười mấy năm về trước, chú đã một mình bơi xuồng đến dựng lều giữa khu rừng đầy thú dữ. Người ta vẫn truyền nhau kể lại việc một mình Võ Tòng đã giết chết hơn hai mươi con hổ. Có lẽ, đây chính là cái tích để người dân vùng này gọi chú là với cái tên Võ Tòng. Bởi lẽ, Võ Tòng trong “Thủy hử” là một người khỏe mạnh, đã tay đôi đấu với hổ và giành chiến thắng. Việc đánh hổ cho thấy Võ Tòng dù là nhân vật trong tác phẩm nào cũng có một sức mạnh thật phi thường và một bản lĩnh hiếm có.

Vẻ bề ngoài của Võ Tòng gợi ra một con người hung dữ, nhưng nét tính cách lại tốt bụng, chất phác. Trong mắt của An, chú Võ Tòng là một người gần gũi, tốt tính, hào phóng. Cách ăn mặc rất dân dã: cởi trần, mặc chiếc quần kaki nhưng đã lâu không giặt. Cách nói chuyện hài hước, gần gũi.

Cuộc đời của Võ Tòng phải chịu nhiều đau thương. Từng có một gia đình hạnh phúc, có vợ đẹp với đứa con chưa chào đời. Nhưng vì một chuyện hiểu lầm, Võ Tòng rơi vào cảnh tù tội. Đến khi trở về, vợ đã lấy người khác, còn đứa con chưa kịp chào đời đã chết. Túng quẫn, chú bỏ làng đi, sống một mình trong rừng. Tuy vẻ bề ngoài kì dị, nhưng người ta mến chú vì tính cách.

Võ Tòng còn là một người có suy nghĩ thấu đáo, chu toàn. Chú đã chia cho tía nuôi của An những mũi tên mà chú đã chuẩn bị, tẩm thuốc độc để giết lũ giặc Pháp. Chú Võ Tòng như bao nhiêu người Việt Nam khác, cũng có tình yêu quê hương, đất nước, lòng căm thù lũ giặc xâm lược.

Như vậy, chú Võ Tòng trong tác phẩm Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi là một nhân vật có vẻ ngoài hung dữ, nhưng ẩn chứa bên trong lại là những vẻ đẹp rất người. Nhân vật này chính là đại diện cho hình ảnh con người Nam Bộ giàu sự phóng khoáng, tốt bụng và tình cảm.

1 224 lượt xem