Tác giả tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 7 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ Ngữ văn lớp 7 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 7. Mời các bạn đón xem:

1 152 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Dọc đường xứ Nghệ - Ngữ văn 7

I. Tác giả

- Nhà văn Sơn Tùng sinh ngày 8/8/1928 tại làng Hoa Lũy (nay là Kim Lũy), xã Diễn Kim, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. 

- Ông tham gia hoạt động cách mạng từ năm 1944, có 70 năm tuổi Đảng. Nhà văn Sơn Tùng để lại một di sản văn chương đồ sộ đáng tự hào với hàng chục tác phẩm, trong đó có 21 tác phẩm tiêu biểu.

- Tiểu thuyết “Búp sen xanh” là tác phẩm tiêu biểu nhất, thành công nhất về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh.

- Cả cuộc đời lao động và sáng tạo của mình, nhà văn Sơn Tùng dành nhiều công sức và tâm huyết cho đề tài Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng và lan tỏa hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh ở cả trong và ngoài nước. 

Dọc đường xứ Nghệ - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

Ba cha con Phó bảng lại thủng thẳng bước trên con đường mà sông, núi mây trời đẹp như bức gâm thêu. Đi hết dãy núi Cấm, sang địa phận Diễn Châu, mảnh đất nổi tiếng trong lịch sử với tên gọi Châu Diễn, Côn tần ngần nhìn ngôi đền cổ kính có nhiều toà từ trên đỉnh núi xuống tận chân núi, sát đường Thiên li. Côn ngạc nhiên hơn khi đứng trên dốc nhìn về phía tây, đối diện với ngôi đền, dãy núi xa xa rất nhiều hình nhiều vẻ, càng ngắm, núi càng biến hoá những hình ảnh theo sự tưởng tượng của Côn. Hòn lèn gần nhất nằm ở giữa cánh cổng bát ngát màu xanh, lại y như một con người cụt đầu đứng hiện ngang giữa đời. Côn nói với cha

– Thưa cha, con muốn được cha chỉ bảo chúng con về sự tích ngôi đền ni, vẻ tên của các hòn núi kia, trông lạ mắt quá cha ạ.

Thấy con ham muốn tìm hiểu về cội nguồn, ông Sắc bước đến bên gốc cây tùng già, giở cơm nắm cho hai con ăn. Dưới bóng cây cổ thụ, ba cha con quan Phó bảng cùng nhìn về phía núi non biêng biếc trải tận chân trời xa, ông kể cho con nghe trọn câu chuyện lịnh sử Mỵ Châu – Trọng Thuỷ. Côn ngạc nhiên hỏi cha:

– Thành Cổ Loa ở mãi tận đâu, thưa cha?

– Cha chưa đi tới đó, nhưng cha đọc sách thấy xa… xa lắm, con ạ

Khiêm lắc đâu, giọng hơi kéo dài

– Người đời xưa có lẽ họ bịa chuyện chứ nàng Mỵ Châu kiếm đâu cho đủ lông ngỗng mà rải khắp con đường dài ấy cha?

Ông Sắc cười. Côn nói, vẻ thán phục:

– Chuyện Mỵ Châu – Trọng Thuỷ hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thuỷ ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước ở kế nhau có hoà hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mỵ Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng, không khinh được của vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội đê mắt nước chứ không cam chịu nộp mình
cho giặc.

Quan Phó bảng Sắc hơi sững sờ nhìn hai con, nhìn ngồi đến thờ Thục Phán:

– Con nói đúng. Nước có lúc thịnh, lúc suy. Đó là điều thường thấy trong trời đất. Nhưng con người ta lại phải biết giữ trọn khí tiết. Vua Thục Phán thuộc loại đó. Con hãy để ý về phong cảnh núi non, đền đài. Con vừa hỏi cha về hòn núi kia giống một người cụt đầu. Người ta thường gọi nó là hòn Hai Vai hoặc là núi “Tướng quân rơi đầu” đó con ạ. Còn phía xa xa kia là hòn Trồng Thủng. Từ hòn Trồng Thủng, một đãy núi dài dằng dặc sát chân trời, đó là núi Cờ Rách.

Hai mắt Côn chơm chớp nhìn theo hướng tay chỉ của cha. Khiêm thì ngạc nhiên thốt lên:

– Ai tưởng tượng ra đầu tiên hình đáng các hòn núi nớ hẳn là mắt tiên, cha nhể

– Từ lòng người mà suy ngẫm ra… con ạ. Người ta còn gọi vùng núi ấy là vùng Ba Hỏn. Theo chuyện kể từ hồi xửa hỏi xưa thì nước ta có giặc từ phương Bắc tràn vào, dân ở khắp miền đất nước ta nhất tề đứng dậy chồng giặc giữ nước. Từ vùng Nghệ Tĩnh ni có một vị tướng kéo đại binh ra Bắc đánh dư trăm trận, chẳng may trong một trận giáp chiến, con ngựa của ông vấp phải cọc, quy chân trước, bọn giặc xúm lại, ông bị một lát đại đao đi qua cổ, đầu rơi xuống đất. Ông nhoai người ra lây được đầu lắp lên cổ và phi ngựa mở đường máu chạy trở về. Quân sĩ của ông cũng kéo cờ mở trồng về theo. Trên đường về, vị tướng này đã gặp một ông lão tại phía bắc sông Mã (Thanh Hoá). Vị tướng dừng ngựa, hỏi:

– Thưa ông, từ xưa đã có người nào bị chặt đầu, lại chắp lên cổ mà sống được không?

– Thưa tướng quân, sống được ạ

Vị tướng lại thúc ngựa phi về tới Diễn Châu, quân sĩ bủa ra tận vùng Yên Thành. Vị tướng gặp một bà già ở phía nam sông Bùng liền hỏi:

– Thưa cụ, xưa nay có người nào bị chặt đầu, lại tự mình chắp vào cổ mà vẫn sống được không?

Bả cụ lắc đầu:

– Loài quỷ, loài yêu tinh thì mới có thể bị chặt đầu này mọc ra đầu khác, còn loài người thì nếu bị chặt đầu là chết.

Bà cụ vừa nói dứt lời, đầu vị tướng quân rơi xuống đất. Và ông đã hoá thành hòn núi Hai Vai. Ngựa của ông chạy thêm một đoạn lên vùng Yên Thành, hoá núi Mã Phục, tại làng Yên Mã. Trống, cờ cũng hoá thành Trống Thủng, núi Cờ Rách

Nghe cha kể xong câu chuyện, Khiêm vẻ mặt đăm chiêu nghĩ ngợi… Côn mắt vẫn nhìn về hòn Hai Vai, nói

– Cha ơi! Ước vọng của dân ta thật là đẹp. Tưởng tượng của người ta đền là tuyệt! Phải không cha?

Con nói đúng. Dáng núi non của quê ta thường thẻ hiện khát vọng của con người.

Một hôm, ba cha con quan Phó bảng Sắc đi qua xã Bạch Ngọc, thấy đền Quả Sơn uy nghỉ hơn cả đến Thục Phán An Dương Vương. Côn lại ngạc nhiên hỏi cha

– Chắc vị thân ni có công lớn lắm cho nên mới được dân làm đền thờ nguy nga, cha nhể?

– Đền ni thờ một ông quan đời nhà Lý đó, con ạ.

– Quan trường mà cũng bắt dân làm đền thờ. Ô! Tệ quá phải không cha?

– Con nghĩ hơi xốc nổi đó. Trong đám người làm quan có kẻ bất tài lại có người tài cao, đức trọng, làm lợi cho dân, được dân nhớ ơn làm đền của cụ Phó bảng tác thờ phụng. Con nên nhớ, đến Quả Sơn ni là nơi thờ quan động đến nhận thức, tình Lý Nhật Quang. Ngài là con thứ tám của vua Lý Thái Tổ, được phong tước Uy Minh hầu. Năm Tân Tỵ, vua Lý Thái Tông cử Lý Nhật Quang vào làm quan coi giữ đất Nghệ. Ngài đã có công mở mang bờ cõi, dẹp yên giặc phía tây, phía nam của đất nước. […] Nghề nông, nghề tằm tang, dệt lụa, đánh cả, làm muối được sớm thịnh hành khắp xứ Nghệ là do công lao. của quan Lý Nhật Quang. […]

Nghe xong câu chuyện của cha kể, Côn im lặng một hồi lâu. Còn nói như khoe với cha về điều mình thích thú

– Bây giờ con mới hiểu ra cái ý nghĩa câu vè mả bà ngoại thường nói vui: Dân vạn đại, quan nhất thời / Ghế ngoại cậu bé Côn đã quan ai ngôi xin chớ thờ ơ/ Thương dân, dân lập đền thờ / Hại dân, dân đái ngập mồ thối xương

Quan Phó bảng vừa cười vừa nói:

– Bà ngoại nói không phải để mua vui đâu mà bà dạy cha, dạy những người có học, có chức trọng quyền cao đó, con ạ.

Quan Phó bảng Sắc đã dân hai con trai đi hầu khắp những nơi nổi tiếng về phong cảnh đẹp, về di tích lịch sử của Nghệ An. Ông lại đưa hai con sang Hà Tĩnh. Hai anh em Khiêm, Côn được cha dẫn về thăm nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền, thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du. Côn tần ngần đứng bên cha, bên anh trước mộ Nguyễn Du và chạnh lòng thầm nhớ những câu thơ trong Truyện Kiều: Sè sè nắm đất bên đường/ Râu rầu ngọn cô nửa vàng, nửa xanh / Rằng sao trong tiết Thanh minh / Mà đây hương khỏi vắng tanh thế mà”…

Côn hỏi cha

– Nguyễn Du đã để lại Truyện Kiều mà bà ngoại thuộc, mẹ của con thuộc, đi An và bao nhiêu người ở làng ta đều thuộc. Công lao lớn ây sao dân lại không làm đền thờ ông Nguyên Du, hả cha?

– Người quê mình không coi công việc làm thợ, làm văn là trọng, con ạ. Thậm chí lại coi những người đàn giỏi hát hay là “đồ xưởng ca vô loài”.

– Sao con lại thầy có ngôi đền thờ thẳng ăn trộm bị đánh chết, hả cha?

Quan Phó bảng phì cười:

– Cha làm sao giải thích nỗi những điều ấy với con được?

Khiêm chau da trán, nhưng đã kiếm được, chỉ nói “mát” em:

– Việc đời đã dớ dận, mi lại “thông minh” dở dận nốt.

– Hứ, – Côn lườm anh Khiêm – anh đừng có khinh em là dớ dân. Anh không để ý chứ vừa rồi ta đi qua một cái miếu thờ cả cái tên ăn trộm, ăn cướp nữa. Trước cửa miều có một hàng chữ lớn, đắp ni: “Đạo tặc tối linh tôn thân”?

Khiêm im lặng. Ba cha con quan Phó bảng như rơi vào khoảng không và trong dòng suy nghĩ của mỗi người hiện lên một câu hỏi lớn về những việc đời…
III. Tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

1.  Thể loại

Tiểu thuyết lịch sử

2. Xuất xứ

In trong “Búp sen xanh” NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2005

3. Ngôi kể

Ngôi thứ ba

4. Phương thức biểu đạt

Tự sự kết hợp miêu tả

5. Tóm tắt tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

Câu chuyện kể về cuộc hành trình của ba cha con Phó bảng, từ đền thờ An Dương Vương đến vùng Ba Hòn, Đền Quả Sơn và kết thúc ở Nhà thợ họ Nguyễn Tiên Điền. Hành trình với biết bao câu hỏi thú vị của Côn và Khiêm. Từ đó bộc lộ phẩm chất và tài năng riêng biệt của hai cậu bé này.

Dọc đường xứ Nghệ - Ngữ văn lớp 7 - Cánh diều (ảnh 1)

6. Bố cục tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

Chia văn bản làm 3 đoạn

- Đoạn 1: từ đầu … “không cam chịu nộp mình cho giặc”: Câu chuyện tình sử Mị Châu – Trọng Thủy, đền thờ Thục Phán.

- Đoạn 2: tiếp … “có chức trọng quyền cao đó, con ạ.”: Câu chuyện về vùng Ba Hòn và đền Quả Sơn.

- Đoạn 3: còn lại: Câu chuyện về đền thờ Nguyễn Du.

7. Giá trị nội dung tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

- Câu chuyện kể về hành trình đi qua các địa danh của ba cha con cụ Phó Bảng. Mỗi địa danh họ đi qua gắn với một câu chuyện. Và qua các câu chuyện đó, cụ Phó Bảng đã giáo dục các con những phẩm chất, tu dưỡng làm người.

- Tinh thần yêu nước, tự hào về vẻ đẹp của non sông. Đồng thời, nhắc nhở mỗi người phải luôn nhớ về cội nguồn, rèn luyện những phẩm chất tốt đẹp để xứng đáng với lịch sử hào hùng của dân tộc.

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, thú vị. Qua câu chuyện, gửi gắm những bài học sâu sắc.

- Kết hợp tự sự với miêu tả, biểu cảm.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Dọc đường xứ Nghệ

1.  Những địa danh cha con cụ Phó bảng đi qua.

a. Câu chuyện tình sử Mị Châu – Trọng Thủy

- Các chi tiết miêu tả ngôi đền:

+ Ngôi đền cổ kính có nhiều tòa từ trên đỉnh núi xuống tận chân núi, sát đường Thiên lí.

+ Nhìn từ xa, dãy núi có nhiều hình nhiều vẻ.

- Câu chuyện về ngôi đền: ngôi đền gắn với câu chuyện tình sử Mỵ Châu – Trọng Thủy, với thành Cổ Loa, vua Thục Phán….

b. Câu chuyện về vùng Ba Hòn

- Câu chuyện về vùng núi Ba Hòn:

+ Có một vị tướng đánh thắng giặc phương Bắc rất nhiều trận nhưng trong một lần không may đã bị giặc chém đầu. Vị tướng nhoai người lấy đầu lắp lên cổ phi ngựa chạy trở về.

+ Trên đường về gặp một ông lão ở phía bắc sông Mã, hỏi ông có tin người bị chặt đầu mà chắp lên cổ sống được không. Ông lão tin. Tướng quân tiếp tục phi về.

+ Về Diễn Châu gặp một bà già ở phía nam sông Bùng, hỏi bà có tin người bị chặt đầu mà chắp lên cổ sống được không. Bà lão không tin. Đầu tướng quân rơi xuống đất. ông hóa thành hòn núi Hai Vai.

+ Ngựa hóa núi Mã.

+ Trống, cờ hóa núi Trống Thủng, Cờ Rách.

→  Câu chuyện mang màu sắc hư cấu kì ảo nhưng chứa đựng trong đó những giá trị cao đẹp, niềm tin, ước vọng của nhân dân. Các hòn núi gắn liền với câu chuyện đầy bi hùng, thể hiện sức mạnh, sự kiên cường, quả cảm, anh hùng của nhân dân ta.

c. Câu chuyện về đền Quả Sơn

- Chi tiết miêu tả:

- Ngôi đền uy nghi hơn cả đền Thục Phán An Dương Vương.

+ Câu chuyện về ngôi đền Quả Sơn: thờ vị quan Lý Nhật Quang – người có công mở mang bờ cõi, dẹp yên giặc phía tây, phía nam, truyền dạy các nghề cho người dân.

d. Câu chuyện về nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền

- Ba cha con đến thăm nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền, thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du và nhớ về kiệt tác Truyện Kiều của ông.

- Nguyễn Du là người có tài năng và để lại một kho tàng những tác phẩm mang nhiều giá trị nhưng lại không được lập đền thờ vì quan niệm không coi trọng thơ văn của người xưa. Vậy mà có thằng ăn trộm bị đánh chết lại được lập đền thờ vì “đạo tặc tối linh tôn thần”.

2. Cậu bé Côn

- Những câu hỏi và sự lí giải về sự kiện lịch sử cho thấy Côn là cậu bé có tâm hồn lương thiện và suy nghĩ thấu đáo, lo xa về những việc trọng đại.

- Nhân vật Côn có tính cách ngoan ngoãn, hiếu học.

3. Nhân vật cụ phó Bảng

- Trong đoạn trích, cụ Phó bảng đã giáo dục các con tu dưỡng làm người bằng cách kể và giảng giải cho các con về các câu chuyện đời trước.

- Tính cách của cụ Phó bảng: ân cần, từ tốn, khí tiết.

IV. Các bài văn mẫu

Soạn bài Dọc đường xứ Nghệ | Ngắn nhất Soạn văn 7 Cánh diều

Đề bài: Phân tích bài Dọc đường xứ Nghệ​​​​​​​

Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, vậy nên đối với nền văn học nước ta, cuộc đời và con người của Bác luôn là nguồn cảm hứng sáng tác bất tận. Trong số đó, không thể không nhắc đến tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được viết từ năm 1948 đến năm 1980. Búp sen xanh không đi xây dựng một thần tượng trong lòng nhân dân mà mang tới những câu chuyện khắc họa đời sống thường ngày giản dị và chân thật về Hồ Chí Minh “cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, sáng chói mà không gây choáng ngợp, gặp lần đầu mà như thân thuộc từ lâu'. Đoạn trích “Dọc đường xứ Nghệ” nằm ở chương đầu có tên Thời thơ ấu của tiểu thuyết Búp sen xanh, theo chân cậu bé Côn thuở nhỏ (chính là Bác Hồ). Đoạn trích kể lại chuyến đi về xứ Nghệ của ba cha con cụ Phó bảng là cụ Nguyễn Sinh Sắc, hai cậu bé Côn (Bác Hồ) và Khiêm (anh trai Bác Hồ). Dọc đường đi đến đâu, ông Phó bảng cũng kể cho hai con nghe về những địa danh lịch sử và những câu chuyện gắn với địa danh đó. Qua lời kể của cha, hai cậu bé thể hiện sự ham học hỏi và đặc biệt là Côn với những lời nhận xét, đánh giá sâu sắc về đất nước, con người nước Nam. 

Ngay từ đầu đoạn trích, theo chân ba cha con cụ Phó bảng về Nghệ An, người đọc đã được chiêm ngưỡng khung cảnh yên bình, đẹp đến vô thực của nước ta, nơi “sông núi mây trời đẹp như bức gấm thêu”. Cha con Côn đi hết dãy núi Cấm, đến Diễn Châu, Côn nhìn thấy một ngôi đền cổ kính sát đường Thiên Lí cùng với những ngọn núi nhiều hình thù theo trí tưởng tượng của cậu. Với sự tò mò không thể kìm nén, Côn đã xin cụ Phó bảng kể về sự tích của ngôi đền và những hòn núi đó. Đây chính là địa danh lịch sử đầu tiên trên con đường về xứ Nghệ mà cụ Sắc giải thích cho các con. Ngôi đền đó gắn với chuyện tình của Mị Châu – Trọng Thủy, vậy là khi ngồi nghỉ ăn cơm nắm, cụ Phó bảng đã kể lại toàn bộ câu chuyện đó cho hai con. Sau khi nghe xong, hai cậu bé đều thích thú và có những cách nhìn nhận khác nhau về câu chuyện. Anh Khiêm có cái nhìn rất thực tế khi đã cảm nhận chuyện là do bịa, vì Mị Châu kiếm đâu được lông ngỗng để trải khắp đường như thế. Còn em Côn lại tiếp tục tò mò hỏi cha thành Cổ Loa ở đâu? Nhưng cụ Sắc cũng chưa đi, cụ chỉ biết nó ở “xa...xa lắm, con ạ”. 

Chưa dừng lại ở đó, tuy còn là một cậu bé nhưng Côn lại có cái nhìn rất sâu sắc về câu chuyện Mị Châu – Trọng Thủy, khiến người đọc không khỏi ngạc nhiên. Cậu bé nhìn ra được sự nham hiểm của vua Triệu, Trọng Thủy thì ngoan ngoãn nghe lời cha, khen vua Thục nước ta biết giữ chữ tin nhưng không biết đề phòng vua Triệu, Mị Châu thì ruột để ngoài da. Và câu chốt lại của Côn là “Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng, không khinh được của vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.” Một đứa trẻ nhỏ tuổi lại có thể có được tầm nhìn xa, trông rộng, biết nhìn ra điểm mạnh, điểm yếu của người khác như vậy thật đáng khâm phục. Sau khi nghe những lời của Côn, cụ Sắc cũng sững người nhìn ngôi đền thờ vua Thục mà dạy hai con “Nước có lúc thịnh, lúc suy. Đó là điều thường thấy trong trời đất. Nhưng con người ta lại phải biết giữ trọn khí tiết. Vua Thục Phán thuộc loại đó”. Rồi cụ Sắc lại tiếp tục giải thích cho hai con về hình hài kì lạ của những hòn núi, gồm ngọn núi giống người cụt đầu gọi là hòn “Hai Vai” hoặc núi “Tướng Quân rơi đầu”, hòn “Trống Thủng”, núi “Cờ Rách”, núi “Mã Phục”. Trước tiên là câu chuyện về vùng Ba Hòn có hòn “Hai Vai”, hòn “Trống Thủng” và núi “Cờ rách”. Chuyện kể rằng khi giặc phương Bắc tràn xuống xâm lược nước ta có một vị Tướng quân ở vùng Nghệ Tĩnh đã mang quân ra Bắc đánh thắng nhiều trận, nhưng trong một trận không may bị giặc chém rơi mất đầu, vị tướng quân đó nhặt đầu lên lắp vào, tiếp tục phi ngựa “mở đường máu” trở về. Trên đường vị Tướng gặp một ông lão ở cuối sông Mã và hỏi ông lão có tin người bị mất đầu mà chắp lên cổ vẫn sống được không, ông lão bảo tin, tướng quân đi tiếp. Về đến Diễn Châu, gặp một bà lão ở phía Nam sông Bùng, tướng quân hỏi câu tương tự thì bà lão không tin “Loài quỷ, loài yêu tinh thì mới có thể bị chặt đầu này mọc ra đầu khác, còn loài người thì nếu bị chặt đầu là chết”. Đến đây, đầu tướng quân rơi xuống, người ông hóa thành hòn Hai Vai, ngựa của ông hóa thành hòn Mã Phục, trống và cờ trong trận chiến hóa thành hòn Trống Thủng và Cờ Rách. Trước khi nghe câu chuyện cha kể, Khiêm đã nói “Ai tưởng tượng ra đầu tiên hình dáng các hòn núi nớ hẳn là mắt tiên”, nhưng khi nghe xong, cậu lại “đăm chiêu nghĩ ngợi”, còn Côn lại cảm nhận thấy ước vọng của người xưa thật đẹp và trí tượng tượng thì thật tuyệt. Đúng như vậy, tuy câu chuyện về các hòn núi rất hư cấu, nhưng nó lại mang theo đó là những giá trị nhân văn cao đẹp, bởi nó thể hiện tinh thần bất khuất, kiên cường của nhân dân ta. 

Ba cha con cụ Phó Bảng tiếp tục cuộc hành trình thì đi qua đền Quả Sơn, ngôi đền này nhìn còn uy nghi hơn cả đền Vua Thục Phán trước đó ba cha con gặp. Tại đây, cụ Sắc lại tiếp tục kể cho Khiêm và Côn nghe về vị vua Lý Nhật Quang, người đã mở rộng bờ cõi, dẹp tan giặc xâm lược và dạy cả nghề cho nhân dân. Đất nước ta thật nhiều con người bình thường nhưng lại phi thường qua từng địa danh và câu chuyện cụ Sắc kể cho các con nghe với vốn hiểu biết phong phú của cụ. Cuối cùng, cụ Phó Bảng đưa hai con đến thăm nhà thợ họ Nguyễn Tiên Điền và mộ của Đại thi hào Nguyễn Du, người vô cùng tài năng và để lại nhiều tác phẩm có giá trị cho nền văn học nước ta, nhưng không được lập đền thờ. Côn lại thắc mắc với cha “Sao con lại thấy có ngôi đền thờ thằng ăn trộm bị đánh chết, hả cha?”, câu hỏi này có lẽ vì cậu bé còn quá nhỏ, chưa thể hiểu hết sự đời con người nên cụ Sắc chỉ biết cười trừ. Nhưng điều Côn thắc mắc lại thể hiện cậu bé không chỉ ham học hỏi mà cái nhìn của cậu cũng vô cùng sâu sắc, đúng là đáng buồn thay khi trong xã hội xưa người đem lại nhiều công lao lớn cho nền văn học đất nước như Nguyễn Du lại không được lập đền thờ mà có thằng ăn trộm bị đánh chết lại được lập đền thờ vì “đạo tặc tối linh tôn thần”. Qua những câu chuyện cụ Phó bảng kể cho hai con trên đường dọc xứ Nghệ đã thể hiện cụ là người có vốn hiểu biết vô cùng sâu rộng, là người có cả trí và tài, hơn cả là có tình yêu quê hương đất nước. Và cụ cũng có cách giáo dục con cái rất đúng đắn, lan tỏa tình yêu thương đất nước cho các con thông qua những câu chuyện lịch sử của những con người đi trước đã làm nên Tổ quốc. Cả hai anh em Khiêm và Côn đều ngoan ngoãn và có tinh thần hiếu học. Cậu bé Côn tuy nhỏ tuổi nhưng có cái nhìn sâu sắc trong việc nhìn nhận, đánh giá con người, sự việc.

Với cách kể truyện giản dị và chân thật, nhà văn Sơn Tùng đã tái hiện thành công phẩm chất của Bác Hồ khi còn nhỏ qua cậu bé Côn. Đoạn trích Dọc đường xứ Nghệ với những địa danh và câu chuyện lịch sử qua lời kể củ cụ Nguyễn Sinh Sắc đã giáo dục cậu bé Khiêm và Côn những bài học về cách làm người và tình yêu quê hương, đất nước. Cũng qua đó, nhắc nhở mỗi chúng ta, đặc biệt là học sinh, tương lai của đất nước phải luôn nhớ ơn cha ông đi trước và cố gắng tu dưỡng bản thân để xứng đáng với lịch sử nước nhà, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc.

1 152 lượt xem