Tác giả tác phẩm Chí khí anh hùng (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Chí khí anh hùng Ngữ văn lớp 11 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Chí khí anh hùng - Ngữ văn 11
I. Tác giả Nguyễn Công Trứ
- Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy Văn.
- Ông sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày 19 tháng 12 năm 1778.
- Quê: người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái Bình.
- Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.
- Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan.
- Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc tử Giám (năm 1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), Tham tán quân vụ, rồi thăng Thị lang Bộ hình (năm 1826). Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình, sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ chức Tổng đốc tỉnh Hải An... Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này, ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.
- Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ:
+ Cuộc đời Nguyễn Công Trứ là cuộc đời của một người say mê hoạt động. Lúc nào trong tâm khảm nhà thơ cũng hằn lên một câu hỏi lớn:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.
+ Năm 1803, khi còn là thư sinh, Nguyễn Công Trứ đã dâng lên nhà vua Gia Long bản “Thái Bình thập sách”, một cương lĩnh trị nước:
“Giữ lòng trung ái,
Chăm đạo dâu con,
Phát triển nông trang,
Trừ bỏ dị đoan,
Sửa đổi phong tục,
Thanh thải tham tàn,
Tiến cử tài đức,
Giữ nghiêm luật lệ”
+ Về sau, khi đỗ đạt, ra làm quan, “đem quách cả sở tồn làm sở dụng”, Nguyễn Công Trứ lao vào công việc một cách hăng say, không hề quản ngại gian lao, vất vả.
+ Trong cuộc đời làm quan của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm hai việc đáng chú ý hơn cả là khai hoang và giúp triều đình “an dân”.
IV. Đọc tác phẩm Chí khí anh hùng
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Nàng rằng: “Phận gái chữ tòng
Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”.
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
III. Tìm hiểu tác phẩm Chí khí anh hùng
1. Thể loại: Thơ 7 chữ
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- In trong Tổng tập văn học Việt Nam, tập 14, Đặng Đức Siêu biên soạn, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2000, tr1084
3. Phương thức biểu đạt
Bài thơ Chí khí anh hùng có phương thức biểu đạt là biểu cảm
4. Ý nghĩa nhan đề
- Chí: thể hiện ý chí con người hướng đến những việc làm lớn lao.
- Khí: là nghị lực để đạt tới mục đích.
→ Chí khí anh hùng: là lí tưởng, nghị lực, và mục đích cao cả của người anh hùng.
5. Tóm tắt Chí khí anh hùng
Từ Hải và Thúy kiều sau nửa năm chung sống hạnh phúc thì Từ Hải từ biệt Kiều lên đường thực hiện lí tưởng. Kiều mong muốn đi theo để chăm sóc, chia sẻ với chồng nhưng Từ Hải từ chối, hứa khi nào thành công sẽ quay về đón Kiều. Từ Hải một mình, một ngựa lên đường thẳng rong. Từ Hải ra đi với tư thế dứt khoát, mạnh mẽ, không vướng bận. Hình ảnh Từ ra đi được ví như hình ảnh chim bằng cất cánh bay lên cùng gió khơi.
6. Bố cục bài Chí khí anh hùng
Gồm 4 phần:
+ Khổ 1: Từ “Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” đến “Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể” - Chí làm trai theo quan niệm của người xưa.
+ Khổ 2: Tiếp đến “Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ” - Quan niệm sống đẹp của Nguyễn Công Trứ.
+ Khổ 3: Tiếp đến “Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ” - Hành động thể hiện chí khí anh hùng.
+ Khổ 4: Còn lại - Niềm vui sướng và tự hào của kẻ sĩ sau khi đã làm tròn nghĩa vụ với đời.
7. Giá trị nội dung
- Bài thơ Chí khí anh hùng của Nguyễn Công Trứ thể hiện rõ quan điểm chí nam nhi: là kẻ sĩ trong cõi đời phải làm nên sự nghiệp to lớn, để lại công đức, danh tiếng cho đất nước, quê hương.
8. Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ thơ trang trọng cổ kính.
- Hình tượng thơ mang tính chất ước lệ tượng trưng, lấy cái kì vĩ, tráng lệ để nói lên khát vọng công danh, chí nam nhi, chí anh hùng
- Nghệ thuật láy âm, điệp từ, luyến láy rất tài tình.
- Thơ đầy nhạc lôi cuốn, hấp dẫn.
III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Chí khí anh hùng
1. Chí làm trai theo quan niệm của người xưa
'Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.”
- Theo quan niệm của người xưa, người con trai sinh ra ở đời, đầu đội trời, chân đạp đất là phải mang “nợ tang bồng”.
+ Tang là cây dâu, bồng là cỏ bồng, nghĩa đen là cung tên
= > Nợ tang bồng là nợ lớn của đấng nam nhi: phải có chí lớn ở bốn phương, tung hoành giữa trời đất, ra sức giúp nước, trả ơn vua, trả nợ đời. Không thể sống ru rú trong xó nhà. Không thể quẩn quanh, mang thói nữ nhi thường tình. Phải đem tài trí đua tranh với đời.
“Chí làm trai nam bắc đông tây,
Cho thỏa sức vẫy vùng trong bốn bể.”
- Người có chí nam nhi, có chí anh hùng thì trường đua tranh vô cùng rộng lớn mang tầm vóc vũ trụ:
+ 'vòng trời đất', 'nam, bắc, đông, tây' 'trong bốn bể' mang 'nợ tang bồng' thì phải hết sức sòng phẳng, nghĩa là có 'vay' thì phải có 'trả'.
+ 'Ngang dọc dọc ngang' chỉ sự tung hoành đó đây; ngoài ra còn phải 'vẫy vùng' đè sóng cưỡi gió, đem tài năng thi thố với thiên hạ.
- Nghệ thuật:
+ Thơ đầy nhạc, lôi cuốn, hấp dẫn.
+ Nghệ thuật láy âm, điệp từ, luyến láy rất tài tình: 'dọc ngang ngang dọc', 'vay giả già vay'.
= > Nhà thơ làm hiện lên trước mắt người đọc, người nghe hình ảnh một đấng nam nhi đang tung hoành, vùng vẫy trong 'vòng trời đất'.
2. Quan niệm sống đẹp của Nguyễn Công Trứ
'Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ,
Lưu đắc đan tâm chiếu hãn thanh.
Đã chắc ai rằng nhục rằng vinh
Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ'
- Khổ thơ có giá trị như một tuyên ngôn, thể hiện một quan niệm sống đẹp:
+ Con người sinh ra ở đời, ai mà chẳng có một nghề, một công việc để mưu sinh “Nhân sinh thế thượng thùy vô nghệ”. Nhưng điều quan trọng nhất là phải biết làm nên công danh sự nghiệp để lại tấm lòng son (đan tâm) trong sử sách, để lại tiếng thơm cho muôn đời.
+ Không nên lấy thành, bại, vinh, nhục để bàn luận anh hùng một cách vội vã, phiến diện. Cũng không nên xem thường người anh hùng khi chưa gặp thời thế “Mấy kẻ biết anh hùng thời vị ngộ”.
= > Trên đây là những lời tâm huyết của Nguyễn Công Trứ muốn nhắn gửi lại cho mai hậu.
3. Hành động thể hiện chí khí anh hùng
- Giọng điệu thơ mang âm hưởng anh hùng ca thể hiện rõ chí anh hùng bằng những hành động, những việc làm cụ thể:
'Cũng có lúc mây tuôn sóng vỗ
Quyết ra tay buồm lái trận cuồng phong
Chí những toan xẻ núi lấp sông
Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ'
= > Ngôn ngữ thơ trang trọng cổ kính. Hình tượng thơ mang tính chất ước lệ tượng trưng, lấy cái kì vĩ, tráng lệ để nói lên khát vọng công danh, chí nam nhi, chí anh hùng:
+ 'Mây tuôn sống vỗ', 'buồm lái trận cuồng phong' là hai hình ảnh tượng trưng nói lên cảnh ngộ đất nước gặp buổi khó khăn; loạn lạc và cách ứng xử của người anh hùng đứng trước thời cuộc, quyết đem tài năng và khí phách dẹp loạn, cứu nguy cho đời, làm sáng ngời lòng trung quân ái quốc.
+ 'Xẻ núi lấp sông' tượng trưng cho những công việc phi thường, những sự việc to lớn, làm rạng rỡ quê hương xứ sở.
= > Nguyễn Công Trứ sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh ước lệ ấy, ông đã đặt đúng chỗ, nói đúng lúc, diễn tả một cách hùng hồn, lôi cuốn, chấn động cái chí khí kẻ sĩ của mình.
4. Niềm vui sướng và tự hào của kẻ sĩ sau khi đã làm tròn nghĩa vụ với đời
- Theo thi pháp cổ gọi là khổ xếp, chỉ có 3 câu, câu cuối cùng gọi là câu keo, chỉ có sáu từ:
'Đường mây rộng thênh thênh cử bộ
Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo
Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.'
+ 'Đường mây' là hình ảnh ẩn dụ, lấy từ câu chữ 'thanh vân chí thượng' (lên đến tận mây xanh) ý nói thi đỗ, có địa vị cao sang, lập được công danh.
+ “Thênh thênh cử bộ” nghĩa là bước đi thênh thênh, ung dung trên con đường công danh
- Nếu ở khổ đầu tác giả viết 'Nợ tang bồng vay giả giả vay' thì đến khổ cuối lại viết 'Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo'.
= > Ta thấy dưới ngòi bút của Nguyễn Công Trứ, ngôn ngữ thơ vừa hình tượng, biểu cảm vừa mang tính hệ thống chặt chẽ. 'vỗ tay reo', 'thành thơi' chỉ niềm vui hân hoan, toại nguyện, thảnh thơi ung dung với 'thơ túi rượu bầu', sống tại cuộc đời của những tao nhân mặc khách.
- Nghệ thuật: Giọng thơ trở nên nhẹ nhàng, thư thái diễn tả niềm vui sướng và tự hào của kẻ sĩ sau khi đã làm tròn nghĩa vụ với đời, đã trang trải hết nợ tang bồng. Và lúc ấy, có quyền được thảnh thơi vui sướng 'thơ túi rượu bầu', thưởng thức trăng thanh gió mát. có người cho đó là hưởng lạc.
V. Các bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Chí khí anh hùng
Bài tham khảo 1
Từ Hải “khách biên đình” oai phong lẫm liệt:
“Râu hùm hàm én mày ngài.
Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao”.
Từ Hải đã chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, đã tái sinh cuộc đời nàng, nâng Kiều thành một mệnh phụ phu nhân:
“Trai anh hùng, gái thuyền quyên,
Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”.
Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó. Từ Hải đã giã biệt phu nhân để lên đường chinh chiến quyết “rạch đôi sơn hà”:
“Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang.
Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Bức chân dung Từ Hải hiện lên trong cảnh giã biệt thật đẹp. Bốn phương trời xa vẫy gọi, “thoắt đã động lòng” đấng trượng phu. Cuộc sống êm ấm gối chăn đầy hạnh phúc “hương lửa đương nồng” cũng không thể níu giữ. Một cái nhìn vời vợi “trời bể mênh mang”. Đó là cái nhìn mang tầm vũ trụ của một anh hùng chí lớn, như Nguyễn Công Trứ từng thổ lộ:
“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể”.
(Chí anh hùng)
“Thoắt” nghĩa vụt chốc, diễn ra rất nhanh và bất ngờ. Thoắt đã thể hiện sự chấn động vô cùng mạnh mẽ trong tâm hồn đấng trượng phu. Từ Hải đã ra đi với khát vọng lập nên sự nghiệp, bằng võ công của bậc tài trai:
“Thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong”.
Kiều đã coi chữ “tòng” làm trọng; tòng phu là một trong đạo tam tòng của người phụ nữ ngày xưa. Đó cũng là một nét đẹp đạo đức Thuý Kiều:
“Chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi”
Từ Hải đã nói với Kiểu bao lời tình nghĩa. Không thể đế cho giọt nước mắt. tiếng thở dài của người vợ đẹp níu giữ. Từ Hải khuyên Kiều hay khẽ nhắc mình: “Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình ?”. Hứa với Kiều về một ngày mai huy hoàng, một ngày mai sum vầy hạnh phúc:
“Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ra sẽ rước nàng nghi gia”.
Đó là lời hứa danh dự của một đấng trượng phu phi thường. Có tin vào chí khí và sức mạnh “rạch đôi sơn hà” của đáng tài trai “đội trời đạp đất” mới có lời hứa như dao chém đá ấy. Với Từ Hải, bốn phương vẫy gọi là chiến công đang chờ đón, là một ngày mai hiển hách có một lực lượng hùng hậu “mười vạn tinh binh ‘, ‘huyện thành đạp đổ năm toà cõi nam”. Thời gian đợi chờ mà Từ Hải an ủi Kiều cũng là một lời hứa:
“Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Hình ảnh cánh chim bằng bay vút muôn dặm khơi là hình ảnh người anh hùng mang chí lớn tung hoành vẫy vùng trong bốn bể:
“Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi”.
Đọc “Truyện Kiều”, ta bắt gặp hình ảnh Từ Hải đã trở lại Lâm Tri sau một năm trời giã biệt. Trong cảnh “Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân”. Từ Công hỏi phu nhân:
“Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
Anh hùng mới biết anh hùng.
Rày xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?”.
Qua đoạn thơ 18 câu này (từ câu 2213 - 2230), nhân vật Từ Hải đã được Nguyễn Du miêu tả với tấm lòng quý mến ngợi ca về chí khí anh hùng và khát vọng sự nghiệp phi thường. Từ Hải là một nhân vật anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp trong “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du.
Bài tham khảo 2
Đoạn trích Chí khí anh hùng trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Đoạn trích Chí khí anh hùng từ câu 2213 đến câu 2230 trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, nói về Từ Hải, một hình tượng nhân vật lí tưởng thể hiện ước mơ lãng mạn về một người anh hùng có những phẩm chất, phi thường.
Rơi vào lầu xanh lần thứ hai, Thúy Kiều luôn sống trong tâm trạng chán chường, tuyệt vọng:
Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
Thế rồi Từ Hải đột nhiên xuất hiện. Từ Hải tìm đến với Thúy Kiều như tìm đến với tri âm, tri kĩ. Trong vũng lầy nhơ nhớp của chốn lầu xanh, Từ Hải đã tinh tường nhận ra phẩm chất cao quý của Thúy Kiều và với con mắt tinh đời, ngay từ cuộc gặp gỡ đầu tiên Kiều đã thầm khẳng định Từ Hải là người duy nhất có thể tát cạn bể oan cho mình. Nàng khiêm nhường bày tỏ:
Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau
Hai người, một là gái giang hồ, một đang làm “giặc”, đều thuộc hạng người bị xã hội phong kiến khinh rẻ nhất, đã đến với nhau tâm đầu ý hợp trong một mối tình tri kỉ. Từ Hải đánh giá Kiều rất cao, còn Kiều nhận ra Từ là đấng anh hùng. Nhưng tình yêu không thể giữ chân Từ Hải được lâu. Đã đến lúc Từ Hải ra đi để tiếp tục tạo lập sự nghiệp. Đoạn trích này cho thấy một Từ Hải đầy chí khí anh hùng, mà cũng đượm chút cô đơn, trống trải giữa đời.
Trước sau đối với Từ Hải, Nguyễn Du vẫn dành cho chàng thái độ trân trọng và kính phục, ở chàng, nhất cử nhất động đều thể hiện rõ chí khí, cốt cách anh hùng. Trên con đường tạo dựng nghiệp lớn, cuộc hôn nhân bất ngờ giữa chàng với Thúy Kiều chỉ là phút chốc nghỉ ngơi, chứ không phải là điểm âm, tri kỉ và cuộc hôn nhân của họ đang hạnh phúc hơn bao giờ hết. Ấy vậy mà, chỉ mới sáu tháng vui hưởng hạnh phúc bên Thúy Kiều, Từ Hải đã lại động lòng bốn phương, dứt khoát lên đường, tiếp tục sự nghiệp lớn lao đang còn dang dở:
Nửa năm hương lửa đương nồng,
Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
Trông vời trời bể mênh mang,
Thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong.
Từ Hải được tác giả miêu tả là con người đa tình, nhưng trước hết Từ Hải là một tráng sĩ, một người có chí khí mạnh mẽ. Chí là mục đích cao cả hướng tới, khí là nghị lực để đạt tới mục đích, ở con người này, khát khao được vẫy vùng giữa trời cao đất rộng như đã trở thành một khát vọng bản năng tự nhiên, không có gì có thể kiềm chế nổi.
Trước lúc gặp gỡ và kết duyên với Thúy Kiều, Từ Hải đã là một anh hùng hảo hán: Dọc ngang nào biết trên đầu có ai, đã từng: Nghênh ngang một cõi biên thùy. Cái chí nguyện lập nên công danh, sự nghiệp ở chàng là rất lớn. Vì thế không có gì cản được bước chân chàng.
Dù Nguyễn Du không nói cụ thể là Từ Hải ra đi làm gì nhưng nếu theo dõi mạch truyện và những câu chàng giải thích để Thúy Kiều an lòng thì người đọc sẽ hiểu cả một sự nghiệp vinh quang đang chờ chàng ở phía trước. Từ Hải không phải là con người của những đam mê thông thường mà là con người của sự nghiệp anh hùng. Đang sống trong cảnh nồng nàn hương lửa. Từ chợt động lòng bốn phương, thế là toàn bộ tâm trí hướng về trời biển mênh mang, và lập tức một minh với thanh gươm yên ngựa, lên đường thẳng rong. Chữ trượng phu trong Truyện Kiều chỉ xuất hiện một lần dành riêng đã nói về Từ Hải. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã dùng từ Trượng phu với nghĩa Từ Hải là người đàn ông có chí khí lớn. Chữ thoắt thể hiện quyết định nhanh chóng, dứt khoát của chàng. Bốn chữ động lòng bốn phương nói lên được cái ý Từ Hải “không phải là người của một nhà, một họ, một xóm, một làng mà là người của trời đất, của bốn phương”. (Hoài Thanh).
Động lòng bốn phương là thấy trong lòng náo nức cái chí tung hoành khắp bốn phương trời. Con người phi thường như chàng chẳng thể giam hãm mình trong một không gian chật hẹp. Chàng nghĩ rất nhanh, quyết định lại càng nhanh. Một thanh gươm, một con tuấn mã, chàng hối hả lên đường. Ấy là bởi khát vọng tự do luôn sôi sục trong huyết quản của người anh hùng. Hoài Thanh bình luận: Qua câu thơ, hình ảnh của con người “thanh gươm yên ngựa” tưởng như che đầy cả trời đất”.
Trong cảnh tiễn biệt, tác giả tả hình ảnh Từ Hải: thanh gươm yên ngựa lên đường thẳng rong trước rồi mới đế cho Từ Hải và Kiều nói những lời tiễn biệt. Có người cho rằng nếu như vậy thì Thúy Kiều còn nói sao được nữa? Có lẽ tác giả muốn dựng cảnh tiễn biệt này khác hẳn cảnh tiễn biệt giữa Thúy Kiều - Kim Trọng, Thúy Kiều - Thúc Sinh. Từ Hải đã ở tư thế sẵn sàng lên đường. Chàng ngồi trên yên ngựa mà nói những lời tiễn biệt với Thúy Kiều. Sự thật có phải vậy không? Không chắc, nhưng cần phải miêu tả như thế mới biểu hiện được sự quyết đoán và cốt cách phi thường của Từ Hải.
Thúy Kiều biết rõ Từ Hải ra đi sẽ lâm vào tình cảnh bốn bể không nhà, nhưng vẫn khẩn thiết xin được cùng đi, nàng rằng: Phận gái chữ tòng, chàng đi thiếp cũng một lòng xin đi. Ngắn gọn thế thôi, nhưng quyết tâm thì rất cao. Chữ tòng ở đây không chỉ có nghĩa như trong sách vở thánh hiền của đạo Nho: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu..., mà còn ngụ ý tiếp sức, chia sẻ nhiệm vụ, muốn cùng được gánh vác với chồng.
Lời Từ Hải nói trong lúc tiễn biệt càng thể hiện rõ chí khí anh hùng của nhân vật này:
Từ rằng: “Tâm phúc tương tri,
Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình?
Bao giờ mười vạn tinh binh,
Tiếng chiêng dậy đất bóng tinh rợp đường.
Làm cho rõ mặt phi thường,
Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.
Bằng nay bốn bể không nhà,
Theo càng thêm bận biết là đi đâu?
Đành lòng chờ đó ít lâu,
Chầy chăng là một năm sau vội gì!”
Đã là tâm phúc tương tri có nghĩa là hai ta đã hiểu biết lòng dạ nhau sâu sắc, vậy mà sao, dường như nàng chưa thấu tâm can ta, nên chưa thoát khỏi thói nữ nhi thường tình. Lẽ ra, nàng phải tỏ ra cứng cỏi để xứng là phu nhân của một bậc trượng phu.
Lí tưởng anh hùng của Từ Hải bộc lộ qua ngôn ngữ mang đậm khẩu khí anh hùng. Khi nói lời chia tay với Thúy Kiều chàng không quyến luyến, bịn rịn vì tình chồng vợ mặn nồng mà quên đi mục đích cao cả. Nếu thực sự quyến luyến, Từ Hải sẽ chấp nhận cho Thúy Kiều đi theo.
Từ Hải là con người có chí khí, khát khao sự nghiệp phi thường nên không thể đắm mình trong chốn buồng the. Đang ở trong cảnh hạnh phúc ngọt ngào, tiếng gọi của sự nghiệp thôi thúc từ bên trong. Từ Hải quyết dứt áo ra đi. Giờ đây, sự nghiệp đối với chàng là trên hết. Đối với Từ Hải, nó chẳng những là ý nghĩa của cuộc sống mà còn là điều kiện để thực hiện những ước ao mà người tri kỉ đã gửi gắm, trông cậy ở chàng. Do vậy mà không có những lời than vãn buồn bã lúc chia tay. Thêm nữa, trong lời trách Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình còn bao hàm ý khuyên Thúy Kiều hãy vượt lên tình cảm thông thường để xứng đáng là vợ của một anh hùng. Cho nên sau này trong nỗi nhớ của Kiều: cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm, không chỉ có sự mong chờ, mà còn có cả hi vọng vào thành công và vinh quang trong sự nghiệp của Từ Hải.
Từ Hải là con người rất mực tự tin. Trước đây, chàng đã ngang nhiên xem mình là anh hùng giữa chốn trần ai. Giờ thì chàng tin rằng tất cả sự nghiệp như đã nắm chắc trong tay. Dù xuất phát chỉ với thanh gươm yên ngựa, nhưng Từ Hải đã tin rằng mình sẽ có trong tay mười vạn tinh binh, sẽ trở về trong hào quang chiến thắng Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường, để rõ mặt phi thường với Thúy Kiều, để đem lại vẻ vang cho người phụ nữ mà chàng hết lòng yêu mến và trân trọng. Từ Hải đã khẳng định muộn thì cũng không quá một năm, nhất định sẽ trở về với cả một cơ đồ to lớn.
Không chút vấn vương, bi lụy, không dùng dằng, quyến luyến như trong các cuộc chia tay bình thường khác, Từ Hải có cách chia tay mang đậm dấu ấn anh hùng của riêng mình. Lời chia tay mà cũng là lời hứa chắc như đinh đóng cột; là niềm tin sắt đá vào chiến thắng trong một tương lai rất gần. Hai câu thơ cuối đoạn đã khẳng định thêm quyết tâm ấy:
Quyết lời dứt áo ra đi,
Gió mây bằng đã đến kì dặm khơi.
Nguyễn Du mượn hình ảnh phim bằng (đại bàng) trong văn chương cổ điển, thường tượng trưng cho khát vọng của những người anh hùng có bản lĩnh phi thường, muốn làm nên sự nghiệp lớn lao để chỉ Từ Hải. Cuộc ra đi đột ngột, không báo trước, thái độ dứt khoát lúc chia tay, niềm tin vào thắng lợi... tất cả đều bộc lộ chí khí anh hùng của Từ Hải. Đã đến lúc chim bằng tung cánh bay lên cùng gió mây chín ngàn dặm trên cao.
Hình ảnh: gió mây bằng đã đến kì dặm khai là mượn ý của Trang Tử tả chim bằng khi cất cánh lên thì như đám mây ngang trời và mỗi bay thì chín vạn dặm mới nghỉ, đối lập với những con chim nhỏ chỉ nhảy nhót trên cành cây đã diễn tả những giây phút ngây ngất say men chiến thắng của con người phi thường lúc rời khỏi nơi tiễn biệt.
Hình tượng người anh hùng Từ Hải là một sáng tạo đặc sắc của Nguyễn Du về phương diện cảm hứng và nghệ thuật miêu tả. Qua đó thể hiện tài năng sử dụng ngôn ngữ của nhà thơ trong việc diễn tả chí khí anh hùng cùng khát vọng tự do của nhân vật Từ Hải.
Từ Hải là hình ảnh thể hiện mạnh mẽ cái ước mơ công lí vẫn âm ỉ trong cảnh đời tù túng của xã hội cũ. Từ Hải ra đi để vẫy vùng cho phỉ sức, phỉ chí, nhưng nếu hiểu kỹ càng còn thêm một lí do nữa là vì bất bình trước những oan khổ của con người bị chà đạp như Thúy Kiều thì không hẳn là không có căn cứ. Điều chắc chắn là cái khao khát của Từ Hải muốn được tung hoành ! rong bốn bể để thực hiện ước mơ công lí chứ không bao giờ nhằm mục đích thiết lập một ngai vàng quyền lực tầm thường.
Nguyễn Du đã thành công trong việc chọn lựa từ ngữ, hình ảnh và biện pháp miêu tả có khuynh hướng lí tưởng hóa để biến Từ Hải thành một hình tượng phi thường với những nét tính cách đẹp đẽ, sinh động. Đoạn trích tuy ngắn nhưng ý nghĩa lại rất lớn. Nó góp phần tô đậm tính cách của người anh hùng Từ Hải - nhân vật lí tưởng, mẫu người đẹp nhất trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du.