Tác giả tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều Ngữ văn lớp 11 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 125 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Tú Uyên gặp Giáng Kiều - Ngữ văn 11

Tú Uyên Giáng Kiều - Heritage Vietnam Airlines

I. Tác giả Vũ Quốc Trân

- Vũ Quốc Trân (? - ?)

- Quê: người làng Đan Loan, huyện Bình Giang, tỉnh (Hải Dương); nhưng sống ở phường Đại Lợi (một phần phố Hàng Đào thuộc Hà Nội ngày nay) vào khoảng giữa thế kỷ 19.

II. Đọc tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Tú Uyên gặp Giáng Kiều

(trích Bích Câu kì ngộ)

Vũ Quốc Trân

Mưa hoa khép cánh song hồ

Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi tạo

Mâm chung một, đũa thêm hai

Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

Tưởng gần thôi lại nghĩ xa

Có khi hình ảnh cũng là phát phủ

Em trời vừa tiết trăng thu

Ngàn suong rắc bạc, lá khô rụng vàng

Chiều thu như gọi tấm thưong

Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình

Kề bên năn nỉ bày tình

Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa

Từ phen giáp mặt đến giờ

Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn

Ấy ai điểm phấn tô son

Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?

Buồng đào nửa bước chẳng rời

Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?

Rày xin bẻ khoá cung trăng

Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nào!

Chọt trông mấp máy miệng đào

Mặt hoa hớn hở dường chào chúa Đông

Cho hay tình cũng là chung

Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!

Một khi ra việc trường văn

Trở về đã thấy bát trận sẵn sàng

So xem phong vị khác thường

Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào

Bếp trời sẵn đó hay sao?

Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!

Sáng mai cứ buổi ra đi

Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi

Bỗng đâu thấy sự lạ đời

Trong tranh sao có bóng người vào ra?

Nhân nhân mày liễu mặt hoa

Này người khi trước đâu mà đến đây?

Nàng đương trang điểm nào hay

Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào

Vội vàng đánh tiếng ra chào

Bên mừng bên lệ, xiết bao là tình

Rằng: “Bấy lâu một chữ tình

Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường?”

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường

Vì mang má phấn nên vương tơ điều

Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu

Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên

Ba sinh đã nặng vì duyên

Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ

Nhân duyên đã định từ xưa

Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân

Cũng là nhờ đức tiên quân

Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Sinh rằng: “Trong bấy lâu nay

Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi

Đã rằng: tác hợp duyên trời

Làm chỉ cho bận lòng người lắm nao”

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu

Tấm son thề với trên đầu xanh xanh

Dám đâu học thói yến oanh

Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương

Gieo thoi trước đã dở dang

Sao nên nát đá phai vàng như chơi

Mái Tây còn để tiếng đời

Treo gương kim cổ cho người soi chung

Lạ gì hoa với gió đông

Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh

Một mai mưa gió bất tình

Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ

Nghĩ trong thân phận yếu thơ

Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!”

Nói thôi rút chiếc trâm đầu

Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra

Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa

Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương

Giọng tình sánh với quỳnh tương

Giả say sinh mới toan đường lần khân

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân

Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi

Song còn mấy bạn tương tri

Bấy lâu chưa có chút gì là đâu

Trước xin từ biệt cùng nhau

Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Nghe lời nói cũng êm tại

Chiều lòng chi nỡ ép nài mưa mây

Trước sân mừng cuộc tỉnh say

Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa

Bóng mây bỗng kéo quanh nhà

Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài

Tường quang sáng một góc trời

Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!

Người yểu điệu, khách thanh tạo

Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai

Lả loi bên nói bên cười

Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang

Đong đưa khoe thắm đua vàng

Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

(Trích Bích Câu kì ngộ, Thi Nham Đinh Gia Thuyết đính chính và chú thích, Cổ văn Việt Nam, 1952, tr. 36 – 42)

III. Tìm hiểu tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều

1. Thể loại

Truyện thơ Nôm

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

- Bích Câu kỳ ngộ nguyên là một tiểu thuyết bằng chữ Hán, trích Tiễn dặn người yêu – Xống chụ xon xao, NXB Văn học, Hà Nội, năm 1973.

 3. Phương thức biểu đạt

Bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều có phương thức biểu đạt là biểu cảm & tự sự.

4. Ý nghĩa nhan đề

Tú Uyên gặp Giáng Kiều - câu chuyện cổ tích nói về câu chuyện chàng trai Tú Uyên thầm yêu cô gái Giáng Kiều xinh đẹp và sau đó là chuỗi ngày tìm đến nhau tìm hạnh phúc của đôi trẻ.

5. Bố cục bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Gồm 2 phần

+ Phần 1: Từ đầu đến “xiết bao là tình” – Cuộc gặp gỡ của Tú Uyên và Giáng Kiều. 

+ Phần 2: Còn lại – Kết duyên vợ chồng và khung cảnh ngày nên đôi.

6. Tóm tắt bài thơ Tú Uyên gặp Giáng Kiều

        Tú Uyên gặp Giáng Kiều trong đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” của tác phẩm “Bích Câu kì ngộ”. Chàng thư sinh nghèo Trần Tú Uyên đem lòng tương tư nàng tiên nữ Giáng Kiều sau khi gặp được nàng trong một lần đi xem hội xuân. Tình yêu đó khiến chàng ôm mộng ngày đêm nhung nhớ và sớm khuya ôm mộng đến sinh bệnh, “chồn” cả người. Một hôm, chàng trở về nhà và thấy cơm canh đã bày sẵn đầy đủ như “bát trân” và bắt gặp một người con gái trong tranh bước ra. Từ đó, chàng và Giáng Kiều đồng vợ đồng chồng chung sống hạnh phúc, vốn có duyên trời định “ba sinh” với nhau. Đoạn trích này thể hiện tình yêu chân thành, sắc sảo bằng những câu văn trữ tình, đậm nét dân tộc và phản ánh mong muốn về một cuộc sống tự do, không khó khăn, loạn lạc.

7. Giá trị nội dung

- Nói về câu chuyện chàng trai Tú uyên phải lòng cô tiên Giáng Kiều và hành trình tìm đến hạnh phúc của họ.

8. Giá trị nghệ thuật

 - Ẩm hưởng dân tộc rõ nét, bút pháp nghệ thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình. 

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Phân tích Tú Uyên gặp Giáng Kiều siêu hay - Văn 11

1. Cuộc gặp gỡ của Tú Uyên và Giáng Kiều

- Câu thơ đầu cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Tú Uyên.

Mưa hoa khép cánh song hồ 

+ Cha mẹ mất sớm, chàng một mình lủi thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu.

+ Ngày đêm miệt mài đèn sách. 

- Gặp gỡ dịp dạo chơi xuân, tình cờ gặp cô gái xinh đẹp như tiên nữ = > ôm mộng ngày đêm: 

Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi

Mâm chung một, đũa thêm hai

Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

...

Cho hay tình cũng là chung

Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!

+ Nỗi nhớ của Tú Uyên như “sông Tương mơ hình” (sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng)

+ Tú Uyên mua được bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang nhớ thương = > mua về treo để sớm khuya ôm mộng. 

- Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật: 

“Có khi hình ảnh cũng là phát phu” 

+ Chàng ôm nhớ nhung đến “chồn” cả người - ốm yếu không còn cử động được. 

+ Mong muốn “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà nàng ngày đêm mộng mị. 

= > Nỗi niềm tương tư, tình cảm sâu nặng. 

- Khi Tú Uyên bận công việc ở trường trở về muộn đã thấy cơm nước dọn sẵn 

= > Chàng quyết định rình xem là ai. 

Một khi ra việc trường văn

Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng

So xem phong vị khác thường

Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào

Bếp trời sẵn đó hay sao?

Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!

+ Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”. 

= > Quyết định rình thì thấy một nàng thiếu nữ bước ra từ trong tranh. 

Sáng mai cứ buổi ra đi

Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi

Trong tranh sao có bóng người vào ra?

...

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường

Vì mang má phấn nên vương tơ điều

Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu

Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên

= > Thỏa mỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. 

2. Kết duyên vợ chồng 

- Khi được chàng thổ lộ, nàng tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:

Ba sinh đã nặng vì duyên

Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ

Nhân duyên đã định từ xưa

Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân

...

Đã rằng: tác hợp duyên trời

Làm chi cho bận lòng người lắm nao!

+ “Ba sinh” – mối nhân duyên tiền kiếp = > mối nhân duyên vợ chồng đến giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân” nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này: 

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”

Tấm son thề với trên đầu xanh xanh

= > Từ đó 2 vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau.

+ Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc.

+ Trăng thanh, hoa nở mừng cho đôi uyên ương. 

+ Nàng hóa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đủ người hậu kẻ hạ.

+ Thiên thời địa lợi nhân hòa chung đôi với vợ chồng.

+ “Vũ y”, “nghê thường” – quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha. 

IV. Các bài văn mẫu

Soạn bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều Văn 11 Chân trời sáng tạo

Đề bài: Phân tích bài Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Bài tham khảo 1

“Bích Câu kì ngộ” của Vũ Quốc Trân là truyện Nôm xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Câu chuyện kể về một chàng thư sinh tên là Trần tú Quyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu và cùng nhau se sợi tơ duyên hạnh phúc. Đoạn trích “Tú Uyên gặp dáng kiều” nói về hoàn cảnh khiến chàng và nàng gặp nhau rồi kết duyên đôi lứa.

Câu thơ đầu đã cho người đọc cảm nhận được gia cảnh nghèo khó của chàng thư sinh Trần Tú Uyên.

Mưa hoa khép cánh song hồ

Cuộc đời thật nghiệt ngã với chàng khi cha mẹ chàng mất sớm, chàng một mình lủi thủi với căn nhà giữa hồ Bích Cầu, ngày đêm miệt mài đèn sách. Trong dịp dạo chơi xuân, tình cờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như tiên nữ giáng trần, chàng luôn dõi theo sau được một quãng thì nàng biến mất không rõ tung tích. Từ đó, chàng ôm tương tư mà ngày đêm nhung nhớ.

Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa
...
Cho hay tình cũng là chung
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!

Tác giả miêu tả nỗi nhớ của chàng như “sông Tương mơ hình”, sông Tương là nơi hai bà Nga Hoàng và Nữ Anh đã khóc thương chồng, nay đó là nơi trĩu nặng tương tư của nhân vật. Rồi một ngày, Tú Uyên mua được một bức tranh nàng thiếu nữ với nét đẹp tựa như người chàng đang thương nhớ, chàng mua về treo trong nhà để “sớm khuya” ôm mộng. Chàng nghĩ về người thiếu nữ ấy đến nỗi ngỡ người trong tranh “phát phu”, tưởng tượng người thiếu nữ trong tranh là người thật. Chàng ôm nhung nhớ đến “chồn” cả người, chồn ở đây có nghĩa là ốm yếu, không còn cử động được, chàng nhớ nàng đến mất ăn mất ngủ. Đến nỗi chàng còn ao ước “bẻ khóa cung trăng” để thấy được “chị Hằng” mà chàng ngày êm mộng mị. Có thể thấy nỗi niềm tương tư, tình cảm của chàng thật sâu nặng giống như xuân Diệu đã từng viết bài thơ “Vấn vương”:

Anh chả hiểu vì sao vấn vương
Năm năm, như mấy chục năm trường
Vẫn là mắt mấy, làn môi ấy
Anh hãy còn thương, chẳng hết thương.

Một quãng thời gian sau, một hôm Tú Uyên bận công việc ở trường trở về nhà trời đã muộn thì thấy cơm nước được dọn sẵn. Không khỏi thắc mắc, chàng quyết định rình xem người bấy lâu nay chăm sóc, phục vụ bữa cơm miếng nước cho chàng là ai:

Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng
So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngọt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!

Cơm canh tiếp đón không chỉ là cơm canh bình thường mà đầy đủ, sung túc như “bát trân”. Bát trên là mâm cơm với 6 món ăn quý giá, chàng không tin vào mắt mình, chắc hẳn chỉ có “bếp trời” mới làm được như vậy. Chàng quyết định rình một phen thì thấy một nàng thiếu nữ từ trong tranh bước ra:

Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Trong tranh sao có bóng người vào ra?

...
Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên

Thỏa nỗi nhớ mong khi gặp được người trong mộng, mắt chàng rưng rưng “bên mừng bên lệ” thổ lộ tình cảm bấy lâu nay với thiếu nữ. Người tiên nữ e thẹn, ngại ngùng tự xưng là tiên nữ Giáng Kiều, vốn là người cõi tiên, vì có tiền duyên với chàng nên hạ phàm xuống đất:

Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân

...

Đã rằng: tác hợp duyên trời
Làm chi cho bận lòng người lắm nao!

“Ba sinh” ở đây chính là mối nhân duyên tiền kiếp của chàng và nàng. Mối nhân duyên vợ chồng đến bây giờ mới được “tơ trăng” nhờ ân đức của “tiên quân”, nên nàng ngỏ ý nguyện một lòng “tấm son” cùng chàng se mối nhân duyên này:

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu”
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh

Từ đó hai vợ chồng chung sống hạnh phúc, thấu hiểu nhau. Chim yến oanh bay theo từng đàn chúc phúc cho đôi trai tài gái sắc, trăng thanh, hoa nở mừng cho mối lương duyên này. Nàng hoa phép ra lâu đài nguy nga, lộng lẫy có đầy đủ kẻ hầu người hạ. Thiên thời địa lợi nhân hòa chung vui với đôi vợ chồng, “Vũ y”, Nghê thường” hay chính là quần áo, xiêm y lả lướt, thiết tha.

Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” mang âm hưởng dân tộc rõ nét, bút pháp nghệ thuật tài tình trong xây dựng hình tượng nhân vật khi kết hợp tả cảnh với tả tình. Tác phẩm được viết bằng chữ Hán mang nét mộng tưởng hoang đường về tình yêu. Ẩn chứa trong đó là tâm nguyện của tác giả về một vấn đề len lỏi trong xã hội. Đó là cái nhìn phê phán của tác giả về một xã hội loạn lạc, khó khăn, khiến con người ta muốn thoát ly khỏi thế giới thực tại. Mặt khác, tác phẩm cũng hướng cho con người giải tỏa, cải cách tâm hồn thoát khỏi Nho giáo, tiến đến Phật giáo và Đạo giáo.

Bài tham khảo 2

Nói đến truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm vẫn chứa đựng sức hấp dẫn với nhân dân bao đời này bởi đây là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Từ những địa danh đến tên người đều đậm chất Việt Nam. Trên bối cảnh của kinh thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc họa mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp mặt bất ngờ của Tú Uyên với người trong mộng.

“Bích Câu kì ngộ” có nghĩa là “Cuộc gặp gỡ kì lạ tại Bích Câu”. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Chàng thư sinh nghèo Tú Uyên cũng tới Thăng Long để học tập. Khi đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên đã vô tình gặp Giáng Kiều và say đắm nàng nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đẹp đã biến mất. Về sau, Tú Uyên gặp một ông lão bán tranh tố nữ, thấy có một bức họa giống hệt người con gái đã gặp dạo trước nên bèn mua tranh về nhà treo. Càng ngày Tú Uyên càng nhung nhớ Giáng Kiều, mải mê ngắm bức tranh:

Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh nên thơ ở “song hồ” - nơi cậu học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tương tư về người trong mộng. Cụm từ “Sớm khuya” cho thấy vòng thời gian tuần hoàn, liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên mong nhớ không lúc nào nguôi. Chàng quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ ngắm nhìn bức họa cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ da diết và mãnh liệt đến mức Tú Uyên cảm tưởng như người con gái trong tranh đang thực sự đứng trước mặt mình. Niềm tương tư được thể hiện ở hành động cụ thể. Cặp số từ “một” - “hai” cùng với các từ “chung”, “thêm” cho thấy thái độ trân trọng, nâng niu của Tú Uyên dành cho bức chân dung Giáng Kiều. Kể cả khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.

Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình

Cặp từ đối lập “gần” - “xa” cùng hai động từ “tưởng” và “nghĩ” thể hiện niềm thương nhớ trào dâng đến bứt rứt trong cõi lòng. Tú Uyên bầu bạn với bức tranh cho khuây khỏa nhưng càng ngắm tranh lại càng nhớ nàng. Bức họa quá đẹp khiến chàng trai đã ngỡ như người thiếu nữ đang kề cạnh rất gần nhưng thực chất khoảng cách vẫn quá xa xôi. Những hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” khắc họa nên khung cảnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng giăng giăng khắp lối tựa như rắc muôn ngàn ánh bạc xuống nhân gian, thảm lá vàng phủ kín khoảnh sân. Thiên nhiên hòa hợp với tâm trạng con người. Trong văn học, buổi chiều là khoảng thời gian đi liền với nỗi nhớ. Ca dao xưa từng nhiều lần diễn đạt nỗi nhớ nhung rất ý nhị, ngọt ngào:

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai

Với Tú Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gửi lòng mình trôi theo dòng nước sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đỗi say mê bóng dáng nàng thiếu nữ. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua Thuần mất, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nhớ:

Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ

Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:

Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?

Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cồn cào, khao khát được giãi bày tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên. Tú Uyên trải lòng về hoàn cảnh của chính mình và về tình yêu. Cặp từ đối lập “ngày” - “đêm” đi liền với hai từ “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ thường trực, không lúc nào ngơi nghỉ mà luôn cuộn xoáy trong tâm trí chàng trai. “đã chồn” tức là quá mệt mỏi, Tú Uyên nhớ nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ dường như một lời than van, trách móc rất tình tứ. Tú Uyên trách thiếu nữ vì sao lại “điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai lần, vừa chỉ đối phương vừa chỉ chính mình, đồng nhất hai con người và cũng là hai đầu nỗi nhớ

Tình yêu luôn chứa đựng sức mạnh diệu kì khiến con người có thể đánh đổi tất cả để có được nó. Tú Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:

Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!

Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước. Chàng xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng. Chữ “nghìn” chỉ nỗi nhớ đằm sâu, không gì so sánh được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ, có tác dụng nhấn mạnh tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy, chàng còn muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.

Bằng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi thực tại buồn bã của con người.

Tiếp đến là những câu thơ thuật lại sự việc khi Tú Uyên và Giáng Kiều gặp nhau:

So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?

Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa cơm ấy có “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngọt ngào. Tú Uyên thấy lạ, lòng nảy sinh mối nghi ngờ. Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về thì bắt gặp người con gái có dung mạo vô cùng xinh đẹp từ trong tranh bước ra. Trước sự việc ấy, Tú Uyên quá hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.

Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam rất mực hiền thục, có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Nàng tự nhận là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều có thể thấy mối tình Uyên - Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng bấy lâu: “ Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi? ”.

Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và có ý thức cao độ về danh dự của mình:

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!

Tác giả đã vận dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế cho công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, ai bắt được cầu thì lấy người ấy để thể hiện tấm lòng mà Giáng Kiều dành cho Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” được đặt ở hai dòng thơ liền nhau cho thấy thái độ nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân, hạnh phúc. Nàng khẳng định tấm lòng trinh bạch của mình khác xa với “thói yến oanh” ham vui và ngắn ngủi. Cặp từ đối lập “mặn” - “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) - “lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của cô gái và tấm lòng chung thủy trong tình yêu. Những điển tích điển cố như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Giáng Kiều đã vận đến “tiền nhân” - duyên nợ từ kiếp trước để nói về lí do nàng xuống trần. Từ trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thực sự coi Tú Uyên là “bạn tương tri”. Mối quan hệ tri âm, tri kỉ xưa nay dễ gì bị phai nhạt bởi khoảng cách nên nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.

Sau cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là khung cảnh hạnh phúc của đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:

Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha

Chỉ trong phút chốc, lều cỏ đã hóa thành lâu đài. Vầng dương quang bao phủ rực rỡ, sáng cả một góc trời. Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm. Các từ láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã diễn tả tâm trạng vui tươi, say trong men rượu của quan khách và gia chủ.

Như vậy, đoạn trích bao gồm nỗi nhớ của Tú Uyên với dáng Kiều, cuộc gặp gỡ của đôi uyên ương chính là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng đã góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.

1 125 lượt xem