Tác giả tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà Ngữ văn lớp 11 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 41 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Người ngồi đợi trước hiên nhà - Ngữ văn 11

I. Tác giả văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà

Người ngồi đợi trước hiên nhà - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Chân trời sáng tạo

- Tên khai sinh: Huỳnh Như Phương.

- Quê quán: Quảng Ngãi

- Năm sinh: 1955

- Phong cách sáng tác: Không rộn ràng khái niệm, không rộn ràng thuật ngữ, giáo sư Huỳnh Như Phương chinh phục người đọc bằng những nhận định sắc bén nhưng điềm đạm với một kiểu văn phong mềm mại nhưng quả quyết.

- Tác phẩm tiêu biểu: Dẫn vào tác phẩm văn chương (1986); Trường phá thức Nga (2007), Những nguồn cảm hứng trong văn học (2008)…

II. Đọc tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

Sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ (Geneva) được kí kết, cuối năm 1954 – đầu năm 1955, ở quê tôi gần một nửa gia đình có người thân đi tập kết ra miền Bắc. Không khí làng quê chùng xuống vì tình cảnh kẻ Bắc người Nam. Những người đàn bà tiễn chồng, tiễn con ra đi, mắt đẫm lệ, hẹn hai năm trở về mà lòng còn nghi ngại. Chính quyền “quốc gia” tiếp thu từ vĩ tuyến 17 trỏ vào và những người con đất Quảng từng hiến tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến chống Pháp đành phải lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, theo đơn vị vào Quy Nhơn, xuống những chiếc tàu Ba Lan đang đợi sẵn. Nhiều người ra đi khi vừa lập gia đình, để lại những người vợ trẻ, có người mang bào thai trong bụng.

Nhà ngoại tôi năm người ra đi trên những chuyến tàu năm ấy: ông ngoại, hai người con trai và hai người con rể. Mới một tháng trước đó, nhà tôi rộn rã với đám cưới của dì Bảy. Dượng Bảy người Tam Kỳ (Quảng Nam), mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đon vị đứng ra làm lễ cuói. Chỉ một tháng sau là đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.

Ra miền Bắc rồi vào lại miền Nam chiến đấu, dượng tôi vẫn tìm cách liên lạc với gia đình. Thỉnh thoảng một lá thu gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hi vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì. Năm dượng đi, dì tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về. Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn. Hình như lời cầu nguyện của dì linh ứng để dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.

Nhà tôi gần đường số 1 . Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân. Tháng Tư năm 1975, những đoàn xe Mô-lô-tô-va (Molotova) nối tiếp nhau chạy ngang trước nhà tôi để chuyển quân vào mặt trận phía Nam. Dưọng tôi ở trên một trong những chuyến xe đó. Hai mươi năm, dượng không quên người xưa nhưng đã quên cảnh cũ. Khi đến địa phận huyện Mộ Đức, dượng đảo mắt tìm xóm nhà quê vợ nhưng không nhận ra vì cảnh vật đổi thay. Đến khi dừng lại hỏi nhà, thì xe đã chạy vượt qua gần năm cây số. Trên đường tiến quân, đâu thể quay xe trở lại, dương chỉ kịp nhờ một người đi đường báo tin cho gia đình.

Những ngày sau đó, gia đình tôi nao nức trong niềm vui chờ đợi. Ông ngoại tôi mất sớm trên miền Bắc, ba tôi hi sinh trên chiến trường đã tám năm, nỗi đau dần

nguôi ngoai. Nhà có năm người ra đi, ba người trở về, cũng còn là may mắn. Dì Bảy tôi lại ngồi trước hiên nhà mỏi mắt nhìn ra đường cái. Nhưng hai cậu tôi lần lượt trở về mà dượng Bảy vẫn không tin tức. Những chiếc xe chở bộ đội hồi hương chạy qua không dừng lại. Gia đình dò hỏi các nơi, mãi đến cuối năm 1975 mới nhận giấy báo tử: dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, của ngõ phía đông bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng. Như trong một câu chuyện cổ, người kị sĩ ra đi trên lưng chiến mã nhưng ngày chiến thắng chỉ có chiến mã trỏ về mà không bóng dáng người trên lưng ngựa. Dì tôi nén nỗi đau vào bên trong. Nhà tôi lập bàn thờ cho dưọng. Tôi đã nhờ người về tận xã Tam Thanh, huyện Tam Kỳ (nay là thành phố Tam Kỳ), tỉnh Quảng Nam tìm gia đình dượng nhưng không ai còn nhớ tên người lính cũ Nguyễn Ngọc Linh. Gần đây, dò tìm danh sách liệt sĩ trên mạng, cũng không có thông tin gì để tìm mộ phần của dượng.

Ngày hoà bình, dì tôi đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động. Bà ngoại tôi ngày một già yếu. Những người con trai của bà về thăm ít ngày rồi lại đi ra thành phố. Những người con gái theo chồng, theo con. Chỉ còn mình dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.

Bà ngoại mất, mấy năm trước dì vào Sài Gòn sống với em nhưng được ít lâu, nhớ quê, lại về sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì lại tiếp tục những bữa cơm vắng lặng như mấy mươi năm trước. Và mỗi buổi chiều muộn lại ra ngồi trước hiên nhà, nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng. Đêm đêm, ngọn đèn điện trên gian thờ lập loè theo tiếng kêu của thạch sùng, có cảm giác như thời gian ngưng đọng đã từ lâu lắm. Mỗi lần về thăm, ngồi bên mâm com đạm bạc với dì, tôi chọt nghĩ nếu ngày đó dì đi bước nữa thì liệu bây giờ dì có được hưởng hạnh phúc không. Hay là hồi trẻ dì “tự túc” một đứa con, theo lời khuyên trong một lá thư đẫm tình thương yêu của dượng, hẳn nay có chỗ trông nhờ và nguồn an ủi.

Mùa lụt năm ngoái, sau những trận mưa dữ dội là những con xả lũ ác nhơn, vùng quê tôi nước tràn trắng trời trắng đất. Nhà ngoại tôi nước ngập đến lưng của sổ, gần bằng trận lụt năm Giáp Thìn (1964). Nhớ hồi đó, tôi còn nhỏ, nhà tôi đông người, thôn xóm cho ghe đến tận nhà chuyển người và gia súc lên vùng đồi cao. Lần này, chỉ có dì Bảy với người cháu gái, nửa đêm nước dâng vào nhà bất thần, may có vài người bà con ở gần đến giúp đỡ kê bàn ghế để có chỗ nằm cao hơn mặt nước, chờ đất trời thu nước xuống.

Mùa lũ dữ rồi cũng qua, vườn rau xanh trở lại. Những ngày này, dì tôi, bà Lê Thị Thoả, một trong bao người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay tròn tám mươi tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyện cầu hồn thiêng những người đã ngã xuống độ trì cho dì bình an, trường thọ.

Xuân Ất Mùi, 2015

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà siêu hay - Văn 11

III. Tìm hiểu tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

1. Thể loại

Tản văn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Xuất xứ: Trích trong Thành phố - những thước phim quay chậm, NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2018.

3. Phương thức biểu đạt

Văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà có phương thức biểu đạt là tự sự & biểu cảm.

4. Ý nghĩa nhan đề

Nhan đề tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà gợi lên cảm xúc thương xót đối với một người phải ngồi chờ đợi trong vô vọng, không có kết quả. Thông qua nhan đề, ta cũng thấy được phần nào số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung động trước bất kì ai.

5. Bố cục bài Người ngồi đợi trước hiên nhà

Gồm 3 phần

+ Phần 1: Từ đầu đến “đôi người đôi ngả”: Tình cảnh ly tán “kẻ Bắc người Nam” của những gia đình có người tập kết ra Bắc.

+ Phần 2: Tiếp đến “tìm mộ phần của dượng”: Tình cảnh đáng thương của dì Bảy khi dượng Bảy ra chiến trận.

+ Phần 3: Còn lại: Tấm lòng thủy chung, son sắt của dì.

6. Tóm tắt bài Người ngồi đợi trước hiên nhà

Bài tản văn kể về số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn có một tháng. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy không hề rung dộng trước bất kì ai.

7. Giá trị nội dung

- Văn bản kể về số phận bất hạnh của dì Bảy có chồng đi tập kết ra Bắc. Vợ chồng dì bảy mới lấy nhau vỏn vẹn có một tháng. Dì kiên nhẫn chờ chồng mình suốt 20 năm trời đến ngay cả khi dì biết chồng mình đã bỏ mạng ở chiến trường dì vẫn một lòng chung thủy khơng hề rung động trước bất kì ai.

8. Giá trị nghệ thuật

- Ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc.

- Cách miêu tả nhân vật chân thật, sinh động.

- Nghệ thuật kể chuyện nhẹ nhàng, lôi cuốn

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà

1. Nhân vật dì Bảy

a. Hoàn cảnh

- Mới lấy nhau được 1 tháng, Dượng Bảy đã phải ra Bắc tập kết à Đôi người đôi ngả

- Cuối năm 1975 gia đình nhận được giấy báo tử: dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng à Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang, dì dượng đã phải chia ly mãi mãi.

Người ngồi đợi trước hiên nhà - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Chân trời sáng tạo

b. Tính cách, phẩm chất

– Yêu thương chồng

+ Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gõ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân.

+ Cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường.

– Thủy chung, tình nghĩa

+ Năm dượng đi, dì tròn 20 tuổi. Suốt 20 năm sau đó, có những người ngỏ ý, dạm hỏi, dì vẫn không lung lạc, với niềm tin sẽ có ngày dượng trở về.

+ Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi 40. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động. Dù cho có cô đơn, lẻ loi dì Bảy vẫn một lòng thủy chung với người chồng đã khuất của mình

=> Dì Bảy là người phụ nữ đức hạnh, đại diện cho phẩm chất của những người mẹ, người vợ Việt Nam anh hùng hi sinh cả thanh xuân, tuổi trẻ của mình, nén nỗi đau cá nhân vào bên trong, âm thầm góp sức vào sự nghiệp giải phóng dân tộc.

2. Nhân vật dượng Bảy

a. Gia cảnh

Dượng Bảy người Tam Kỳ (Quảng Nam), mồ côi cả cha mẹ, đi bộ đội, đóng quân ở làng tôi, thầm yêu dì, rồi đơn vị đứng ra làm lễ cưới

b. Số phận đau thương

- Chỉ một tháng sau khi lấy vợ đơn vị chuyển đi, đôi người đôi ngả.

- Dượng hi sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng.

=>Dượng Bảy đại diện cho những người anh hùng ra đi bỏ lại đằng sau là gia đình, người thân. Chiến đấu để giải phóng dân tộc, để nhân dân được bình yên hạnh phúc. Nhưng lại không có cái may mắn được chứng kiến ngày đất nước được giải phóng

c. Yêu thương gia đình.

- Thỉnh thoảng dượng lại gửi thư về, lá thư được gói trong bọc ni-lông bé tí

- Gần cuối cuộc chiến tranh, tin nhắn của dượng về nhà thường xuyên hơn

- Khi bị lỡ mất chuyến xe về thăm gia đình. Dượng nhờ một người đi đường báo tin cho gia đình và gửi tặng dì chiếc nón bài thơ.

=> Dượng Bảy luôn nhớ tới gia đình, luôn nhớ tới người vợ tảo tần, phải chịu nhiều thiệt thòi, vất vả.

3. Thông điệp, ý nghĩa của văn bản

- Ca ngợi đức hi sinh cao cả, thầm lặng, phẩm chất thủy chung, tình nghĩa của những người vợ có chồng tham gia chiến tranh.

- Xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường.

- Tố cáo chiến tranh tàn ác đã đẩy những gia đình vào cảnh li tán, chia lìa.

V. Các bài văn mẫu

Phân tích 'Người ngồi đợi trước hiên nhà' chọn lọc hay nhất

Đề bài: Phân tích bài Người ngồi đợi trước hiên nhà

Bài tham khảo 1

“Em tiễn đưa anh như ngọn lửa

Dấy lòng anh mãi chiến trường xa”

Những cuộc tiễn đưa, những cái nắm tay, những lời chào chia ly trong chiến tranh đã đi vào văn chương một cách bình dị mà sâu lắng. “Người ngồi đợi trước hiên nhà “ của tác giả Huỳnh Như Phương cũng là câu chuyện về tình yêu, sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian của con người trong và sau chiến tranh.

Tản văn là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa. Ngôi kể thứ nhất, xưng là “tôi” đã giúp cho những chi tiết, sự kiện trong truyện hiện lên chân thật, khách quan hơn.

Bối cảnh mở đầu của câu chuyện chính là những năm tháng đất nước đang chìm trong đau thương của chiến tranh. Sau khi hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, có biết bao người dân vì đấu tranh cho Tổ quốc mà phải rời xa quê hương. Trong đó, ở phía sau là hình bóng những người mẹ, người vợ, những đứa con. Gia đình dì Bảy và dượng Bảy cũng là một trong số đó. Họ lấy nhau mới được một tháng thì dượng Bảy đã phải đi tập kết ra Bắc. Với một cặp vợ chồng mới cưới, thì việc ở bên cạnh nhau cũng là một cách để có thể vun vén hạnh phúc gia đình và chăm lo, đỡ đần cho nhau trong những ngày tháng gian khó. Ấy vậy mà dì Bảy và dượng Bảy phải sống trong cảnh mỗi người một phương.

Cuộc chiến tranh đã gieo vào lòng người đi, kẻ ở muôn vàn nỗi xót xa. Dù đã bị chia cắt làm nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng còn dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”. Tình yêu thương thì vẫn luôn tồn tại nơi trái tim mỗi người, vượt lên khoảng cách địa lí.

Khi dượng ra đi, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm sau đó có những người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì giữ niềm tin có ngày chồng mình sẽ trở về. Thế mới thấy tình yêu thương dì Bảy dành cho chồng lớn lao và cao cả biết bao: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”.

Tưởng rằng sự chờ đợi sẽ được đền đáp xứng đáng, nhưng chiến tranh thật tàn độc khi cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: 'dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng'. Nước mắt như nghẹn lại, tác giả không khỏi thương xót thay cho dì Bảy trước sự hi sinh của chồng. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, 'mỏi mắt nhìn ra đường cái' nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, 'mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử'. Chiến tranh thì ắt hẳn sẽ có những giọt máu rơi xuống nền đất, sẽ có những xác người bạt ngàn nẻo đường. Với dì Bảy, đó là một nhát dao cứa thẳng vào trái tim khi mất đi người mà mình đã yêu thương chờ đợi.

Không còn chồng ở bên cạnh, mất đi bóng hình thân thuộc ấy nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Nhân vật người cháu đã xót thương và cảm phục trước lòng chung thủy, kiên cường của dì.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và biểu cảm, ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc, Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc khắc họa chân dung dì Bảy và dượng Bảy trong hoàn cảnh bấy giờ một cách chân thực nhất. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là biểu tượng cao đẹp cho người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hy sinh tình cảm cá nhân để góp vào sự hòa bình Tổ quốc. Qua đó, tác giả đã phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác, đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.

Bài tham khảo 2

Đầu tiên ta đi vào hoàn cảnh chia ly của đôi vợ chồng dì dượng Bảy. Năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết khiến cho những người con ở Quảng Nam phải ra Bắc sống và làm việc. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau mới được một tháng trời thì người chồng phải tập quân ra Bắc, hoàn cảnh chưa được hạnh phúc bao lâu mà đã phải nói lời từ biệt. Không chỉ riêng gì dì dượng Bảy mà tất cả mọi người đều vậy, chiến tranh đã khiến cho các gia đình lâm vào cảnh ly tán, vợ tiễn chồng, tiễn con lên đường “đôi người đôi ngả”. Cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ của đất nước ta đã khiến dượng Bảy và nhiều người con đất Quảng khác phải lên đường gánh vác trên vai trách nhiệm to lớn với đất nước, tất cả cho thấy chiến tranh thật tàn nhẫn, nó đã chia cắt hạnh phúc gia đình lứa đôi đẩy cuộc sống của người dân vào hoàn cảnh cô đơn chia cắt.

Đau lòng vì phải chia ly là vậy nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng cong dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng là một lá thư gói trong bọc ni lông…”, “gần cuối cuộc chiến tranh tin tức của dượng về nhà thường xuyên hơn”, “… dượng nhờ người báo tin cho gia đình và gửi tặng dì tôi một chiếc nón bài thơ mua được trên đường hành quân.' Mặc dù chiến tranh đã chia cắt nhau là vậy nhưng họ vẫn luôn hướng về nhau, nó có thể chia cắt được thể xác chứ tình cảm thì không. Dì Bảy vẫn luôn chờ đợi dượng Bảy suốt hai mươi năm trời với niềm tin nung nấu rằng chồng mình sẽ quay trở về dù có người ngỏ ý dạn hỏi. Dì Bảy hết sức yêu thương chồng: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”. Thế rồi chuyện gì đến cũng vẫn sẽ đến, chiến tranh đã cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: 'dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng'. Đến đây tác giả đã bộc lộ cảm xúc xót thương cho nhân vật dì Bảy trước sự hi sinh của dượng Bảy. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, 'mỏi mắt nhìn ra đường cái' nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, 'mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử',. Bom đạn trong chiến tranh không những chia cắt con người mà còn cướp đi mạng sống của những người thân yêu, đẩy họ vào đau khổ tột cùng, để lại nỗi khổ đau, nhớ nhung cho những người ở lại như dì Bảy cũng như người dân Việt Nam ta lúc bấy giờ.

Dù dượng Bảy đã mất nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động.”, “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Qua lời kể của tác giả cho thấy tác giả đầy xót xa thương cảm. Đứa cháu thương cho người dì cô quạnh, đồng thời cũng cảm phục lòng chung thủy, kiên cường của người phụ nữ ấy. Tác giả thương cảm cho số phận của người dì, dì rất mực yêu thương chồng nhưng hoàn cảnh chiến tranh đã đẩy dì và thế chia ly và mất đi người chồng đầu gối tay kề với mình. Cuộc sống cô đơn lẻ loi trong những ngày bão lụt, không biết nương tựa vào ai. Dù vậy nhưng dì Bảy vẫn một lòng chung thủy với người chồng đã khuất của mình. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ Việt Nam ta với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hi sinh tình cảm cá nhân để góp phần vào nhiệm vụ lớn lao đối với Tổ quốc. Tác phẩm được kể theo ngôi thứ nhất, xưng là tôi. Đó chính là tác giả trong vai người cháu chứng kiến toàn bộ câu chuyện và kể lại khiến cho câu chuyện trở nên chân thật, khách quan hơn. Từ đó tác giả muốn lên án chiến tranh tàn khốc đã chia lìa và cướp đi sinh mạng của bao người dân ta, đồng thời để lại cho người ở lại nỗi đau buồn không gì có thể bù đắp được.

Với sự kết hợp của tự sự và biểu cảm, giọng kể đầy xúc cảm, tác giả Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc kể lại câu chuyện của dì dượng Bảy một cách chân thật nhất. Đồng thời tác giả muốn lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm chia cắt bao gia đình và nó đã cướp đi sinh mạng của bao con dân Việt Nam ta trong thời kỳ chống Mỹ, xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường, ca ngợi đức tính hy sinh cao cả mà thầm lặng của những người phụ nữ anh hùng dân tộc Việt Nam ta.

1 41 lượt xem