Tác giả tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng Ngữ văn lớp 11 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Anh hùng tiếng đã gọi rằng - Ngữ văn 11
I. Tác giả Nguyễn Du
- Nguyễn Du (1765 -1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng) dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc –Bắc Ninh. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.
- Thời đại: Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống.
- Cuộc đời: cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
- Sự nghiệp văn học: sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm:
+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.
+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.
- Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người, nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, ... đó là kết quả của quá trình quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả. Đồng thời lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.
II. Đọc tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi,
Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Từ rằng: 'Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.
Đòi cơn gió quét mưa sa,
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam.
Phong trần mải một lưỡi gươm,
Những loài giả áo túi cơm sá gì!
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ,
Thiếu gì cô quả, thiểu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
III. Tìm hiểu tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng
1. Thể loại
- Đoạn trích Anh hùng tiếng đã gọi rằng thuộc thể loại: thơ lục bát.
2. Xuất xứ
- Đoạn trích nằm trong tác phẩm Truyện Kiều, từ câu 2419 đến 2450.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.
4. Tóm tắt Anh hùng tiếng đã gọi rằng
“Anh hùng tiếng đã gọi rằng” là một tác phẩm văn học đầy tình cảm của Nguyễn Du trong tiểu thuyết Truyện Kiều. Trong đó, người anh hùng Từ Hải được miêu tả với hình ảnh lừng lẫy và oai phong, đồng thời cũng là người trọng tình trọng nghĩa, từ bi giáng thế cứu đối. Thúy Kiều - nhân vật chính trong tác phẩm, không thể quên công ơn Từ Hải đã giải thoát cô khỏi chốn oan khiên bụi trần. Nàng coi Từ Hải như một vị anh hùng giáng thế để giải thoát cho mình khỏi những bế tắc của cuộc đời. Từ Hải còn là người biết thấu hiểu và đáp ứng nỗi lòng của Kiều, ông sẵn sàng hy sinh để giúp nàng gặp lại người thân, gia đình của mình. Tác phẩm đã thành công vẽ nên hình ảnh một anh hùng đích thực trong lòng độc giả, đồng thời vẫn giữ được sự nhân văn và từ bi của nhân vật này. Anh hùng Từ Hải đã trở thành một biểu tượng văn hóa, một bậc anh hùng đại diện cho lòng từ bi và tinh thần đấu tranh chống lại bất công.
5. Bố cục đoạn trích
- Phần 1 (từ đầu đến …là tam cam lòng): Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều.
- Phần 2 (phần còn lại): Khẳng định vẻ đẹp anh hùng đích thực của Từ Hải trong cuộc chiến công.
6. Giá trị nội dung
- Đoạn trích ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng Từ Hải giàu nghĩa khí. Qua đó, nêu bật và khẳng định cảm hứng nhân văn, nói lên khát vọng tự do của con người thời đại.
7. Giá trị nghệ thuật
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật, sử dụng các từ Hán Việt đã góp phần miêu tả cốt cách phi thường của nhân vật Từ Hải đã khắc họa thành công một hình tượng con người mang tầm vóc vũ trụ kì vĩ.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Anh hùng tiếng đã gọi rằng
1. Cuộc trò chuyện giữa Từ Hải và Thúy Kiều
- Cách xưng hô của Thúy Kiều:
+ Khi nói về Từ Hải, nàng lại mang một sắc thái khác: Tự nhận mình hèn mọn, nhỏ bé, Kiều tôn vinh Từ Hải như một bậc cứu nhân độ thế, rửa sạch oan khiên.
- Từ Hải trong tâm trí Kiều đã hiện lên trong tám vóc vũ trụ, phi phàm: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”, “Dế đem gan óc đền nghì trời mây”.
=> Từ Hải hiện lên như một người anh hùng lí tưởng tuyệt đẹp, xem hành động ra oai “sấm sét” của mình giúp Kiều báo ân báo oán là “việc nhà”, là chuyện gia đình…cùng là để Kiều sớm gặp lại gia đình, gặp lại song thân ànhân cách anh hùng của Từ Hải là một sự hài hoà tuyệt vời giữa khiêm nhường và xuất chúng, giữa cốt cách hào hoa quốc sĩ và phẩm cách anh hùng, giữa lòng trung hậu nhân từ và sự ngang tàng đấy uy vũ...
2. Vẻ đẹp anh hùng đích thực của Từ Hải trong cuộc chiến công
+ Lí tưởng: Từ Hải giúp Kiều báo ân, báo oán là một việc làm đầy nghĩa khí như các anh hùng hảo hán xưa nay vẫn coi trọng. Với Từ hải, không thể dung tha mọi “bất bằng” tội ác ở đời “anh hùng tiếng đã gọi rằng/ giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Câu nói vang lên đĩnh đạc, hào hùng thể hiện một lí tưởng anh hùng tuyệt đẹp, như một lời tuyên chiến với mọi cái ác, cái bất công ở đời.
+ Lời nói: đanh thép, ngang tàng, ngang nhiên thách thưc, tự coi minh là 'quốc sĩ', nghĩa là kẻ sĩ tầm cỡ quốc gia, lại gọi mình là 'anh hùng'.
+ Hành động, kì tích: tiến quân như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy chấn động “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải dựng lên một triều đình đối địch làm chủ “một góc trời”, có tổ chức quy củ “gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”, xuất quân đánh đâu thắng đấy”gió quét mưa sa”, “đạp đổ năm tòa cõi Nam”. Dưới con mắt của Từ Hải, bọn vua quan triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm”, ngang nhiên thách thức ‘trước cờ ai dám tranh cương/ năm năm hùng cứ một phương hải tần”. Qua đó, ta thấy Từ Hải oai phong lẫm liệt như một anh hùng thần thoại, một dũng sĩ trong sử thi, hiện lên trong hào quang chiến trận, lừng lẫy trong chiến công.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Bài tham khảo 1
“Một nước không thể không có quốc hoa, “Truyện Kiều” là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta” - đó là lời nhận xét của nhà văn hóa Phạm Quỳnh về giá trị của “Truyện Kiều”. Để trở thành “quốc hoa”, “quốc túy” và “quốc hồn” thì 3254 câu lục bát của Nguyễn Du phải thực sự trở thành tiếng nói đồng điệu với tâm hồn phong phú của người dân đất Việt. Đọc đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng”, ta có thể thấy khát khao hòa bình, hạnh phúc, công bằng của nhân dân được Nguyễn Du gửi gắm qua hình ảnh Từ Hải.
Đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” kéo dài từ câu 2419 đến câu 2450 thuộc phần “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”, ngay sau đoạn Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Bằng tài năng văn học cùng tấm lòng nhân đạo cao cả của mình, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải oai nghiêm, phi thường nhưng cũng hết sức bình dị, gần gũi để thể hiện ước mơ của nhân dân về hạnh phúc và công lí trong xã hội phong kiến.
Mở đầu đoạn trích là cuộc đối thoại giữa Thúy Kiều và Từ Hải. Khi gặp Từ Hải, Thúy Kiều đã trải qua khoảng thời gian lưu lạc đầy đau thương. Tiếng khóc “đoạn trường” do bị đày đọa cả thể xác lẫn tinh thần của nàng tưởng như không bao giờ chấm dứt. Sự xuất hiện của Từ Hải là nguồn sáng cứu vớt Kiều thoát khỏi tăm tối, cho Kiều có cơ hội ngồi trên công đường báo ân báo oán. Chính vì thế, những lời Kiều bày tỏ với Từ Hải đều rất chân tình, thể hiện sự kính trọng và hàm ơn:
“Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng
Tạ ân lạy trước Từ công:
“Chút thân bồ liễu nào mong có này!
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!”
Thúy Kiều cúi đầu lạy tạ Từ Hải - ân công của nàng khiến không khí cuộc đối thoại trở nên trang trọng. Đối với Kiều, Từ Hải không chỉ là người bạn tri âm mà còn là vị ân nhân cứu thế. Nàng tự nhận mình là “thân bồ liễu” nhỏ nhoi, hèn mọn, nào dám mơ tới sẽ có ngày này. Từ Hải không những cưu mang, che chở cho nàng mà còn thấu hiểu nguyện vọng thầm kín của nàng. Việc đưa một người phụ nữ lên vị trí công đường là điều xưa nay chưa từng có tiền lệ nhưng bằng quyền uy, sức mạnh của mình mà Từ Hải đã giúp Kiều hiện thực hóa niềm mong ước, giãi bày nỗi thống khổ suốt bao nhiêu năm. Thúy Kiều ý thức được điều ấy nên nàng hết sức kính cẩn trước Từ Hải. Từ Hải được ví với “sấm sét” uy vũ vô cùng.
“Chạm xương chép dạ xiết chỉ,
Dễ đem gan óc đền nghỉ trời mây!”
Đứng trước Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định sẽ ghi dòng tạc dạ ơn nghĩa này như khắc vào xương, như ghi vào lòng. Khi Kiều báo ân báo oán, nàng đã coi Thúc Sinh cũng là một người có ơn với mình nên đã tặng cho Thúc Sinh “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”. Gấm, bạc đều là những vật vô cùng quý giá lại đi với những từ chỉ số lượng “trăm”, “nghìn” đã thể hiện tấm lòng trân trọng của Kiều dành cho Thúc Sinh. Tuy nhiên, tình nghĩa giữa Thúy Kiều với Thúc Sinh vẫn được đong đếm cụ thể bằng những vật chất hữu hình. Ở đây, với Từ Hải, Thúy Kiều đã khẳng định ơn của Từ Hải lớn như trời mây, dẫu Kiều có “đem gan óc” cũng không thể trả đủ nên vốn dĩ không gì có thể đo lường được. Sự khiêm nhường của Thúy Kiều đã nâng cao vị thế của Từ Hải. Nguyễn Du khắc họa Từ Hải một cách gián tiếp bằng cách mượn lời Kiều, nhấn mạnh vào những công đức của Từ Hải khiến nhân vật càng trở nên ấn tượng.
Đáp lại lời của Kiều, Từ Hải đã tự lên tiếng bộc lộ tấm lòng của mình. Từ những suy nghĩ, lời nói ấy, cốt cách anh hùng đáng quý của Từ Hải càng được thể hiện rõ ràng:
“Từ rằng: 'Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa dường dẫu thấy bất bằng mà tha!”
Từ Hải đã tự coi minh là bậc “Quốc sĩ' trong thiên hạ, thể hiện sự ý thức rõ ràng về tài năng và phẩm giá của bản thân. Nếu Kiều coi bản thân là kẻ hàm ơn thì với Từ Hải, việc giúp đỡ Kiều xuất phát từ tấm lòng tri âm tri kỉ. Người anh hùng không hề cao ngạo mà hết mực khiêm tốn và quý trọng Kiều. Những bậc hảo hán xưa nay trong thiên hạ đều mong muốn tìm được người tâm giao nhưng đó đâu phải chuyện dễ dàng! Thế nên, ngay từ buổi gặp Kiều, Từ Hải đã thể hiện tấm lòng chân thành, ngay thẳng của mình:
“Từ rằng: tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió vật vờ hay sao?”
Không chỉ vậy, ta còn thấy được sự hòa quyện giữa vẻ đẹp thanh cao với sự phong trần ở nhân vật này qua hai tiếng “Anh hùng”. Nếu “Truyện Lục Vân Tiên” có chàng Vân Tiên “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi” thì “Truyện Kiều” cũng có một Từ Hải phi phàm “Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!”. Đây chính là quan niệm sống và lối ứng xử cao đẹp, thể hiện rõ “Chí làm trai” của đấng nam nhi thời phong kiến. Từ Hải chính là người quân tử sẵn sàng giúp đỡ kẻ yếu thế, lấy hạnh phúc của người dân là động lực để tranh đấu. Từ Hải quả thực là người anh hùng mà nhân dân hằng ao ước!
Sau khi đề cập đến trách nhiệm và chí khí của người anh hùng, Từ Hải nhắc đến tình cảm riêng đối với Kiều:
“Huống chỉ việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ mới là tri ân?
Xót nàng còn chút song thân
Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa.
Sao cho muôn dặm một nhà
Cho người thấy mặt là ta cam lòng.”
Cách nói “Huống chỉ” kết hợp với hai chữ “việc nhà” cho thấy đối với Từ Hải, việc giúp Kiều báo ân báo oán chỉ là một việc hết sức thường tình. Từ Hải coi đó là “việc nhà”, đồng nhất lý tưởng anh hùng với việc giúp đỡ Kiều. Thúy Kiều là hiện thân cho những con người hồng nhan mà bạc mệnh, đại diện cho những số phận yếu thế, bị đày đọa bởi xã hội đồng tiền nên tư tưởng hành hiệp trượng nghĩa để cứu đời trong lòng Từ Hải được thể hiện cụ thể với nàng. Có thể thấy, từ mục đích đến cách hành động của Từ Hải đều xuất phát từ tấm lòng nhân nghĩa và giàu tình thương. Là một quan võ nhưng Từ Hải không mang vẻ thô kệch, sỗ sàng mà trái lại, rất mực nho nhã và tinh tế. Từ Hải đã thấu hiểu cho hoàn cảnh ngang trái của Kiều. “kẻ Việt người Tần” có ý nghĩa chỉ việc Kiều lưu lạc nhiều năm, phải xa gia đình, không hay biết chút tin tức gì về cha mẹ. Chứng kiến tình cảnh ấy, Từ Hải đã nảy sinh sự xót thương, nguyện dốc sức “Sao cho muôn dặm một nhà”. Người anh hùng “Chọc trời khuấy nước mặc dầu” ấy không phải là một con người ngồi trên vị thế cao cao tại thượng xa cách với nhân dân. Từ Hải quan tâm đến từng số phận cá nhân, mong muốn cho “muôn dặm” được an vui thì mới yên lòng.
Như vậy, ở phần đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa hình tượng Từ Hải qua lời nói của Kiều và để nhân vật tự khẳng định mình qua lời nói, suy nghĩ. Từ đó, nhà thơ làm nổi bật lên ở nhân vật vẻ đẹp vừa mộc mạc, gần gũi lại vừa phi thường. Khi miêu tả Từ Hải, Nguyễn Du đã dành cho nhân vật sự kính nể, ngợi ca. Từ Hải hội tụ đầy đủ phẩm chất của một người anh hùng chính nghĩa, đại diện cho nhân dân, đối lập với thế lực phong kiến bạo tàn.
Sang phần hai, không gian của đoạn trích được mở rộng hơn. Hình ảnh Từ Hải hiện lên oai hùng, đầy uy dũng trên phông nền chiến trường đậm chất sử thi hoành tráng:
“Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan,
Binh uy từ đẩy sấm ran trong ngoài,
Triều đình riêng một góc trời,
Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà.”
Những cụm từ mang tính chất phóng đại như “Muôn binh nghìn tướng”, “trúc chẻ mái tan” đã khắc họa rõ sức mạnh vô song của Từ Hải. Dưới trướng của người anh hùng là đội quân oai vệ với hàng ngàn binh lính. Khí thế của họ khiến “trúc chẻ mái tan”, sấm rền vang trời đất. Cái oai phong, lẫm liệt, ngang tàng, khí phách của Từ Hải đối lập với sức mạnh chuyên quyền áp bức con người của triều đình phong kiến nên người anh hùng đã lập ra “Triều đình riêng một góc trời”. Cách nói “rạch đôi sơn hà” cho thấy khí phách ngạo nghễ, không chịu cúi đầu thuần phục bọn quan tham lại nhũng của con người văn võ song toàn.
“Đòi cơn gió quét mưa sa
Huyện thành đạp đổ năm toà cõi Nam
Phong trần mải một lưỡi gươm
Những loài giả áo túi cơm sá gì
Nghênh ngang một cõi biên thuỷ
Thiếu gì cô quả, thiểu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần”
Không gian để Từ Hải tỏa sáng phải là nơi đất trời rộng lớn: “Huyện thành”, “cõi Nam”, “một phương hải tần”. Ở đây, Nguyễn Du đã sử dụng một loạt những hình ảnh thiên nhiên kì vĩ với sức công phá mãnh liệt như “gió quét”, “mưa sa”, “sơn hà” cùng các động từ mạnh như “đạp đổ”, “rạch đôi”, “vội truyền”,... khiến chân dung Từ Hải hiện lên đẹp rực rỡ như bức tượng đài sừng sững sánh ngang trời đất. Những cụm từ “Đòi cơn”, “sá gì”, “Thiếu gì”, “ai dám” cho thấy khẩu khí ngang tàng, gai góc ở người anh hùng trăm trận trăm thắng. Sống trong thời “Phong trần” loạn lạc nhưng lưỡi gươm công lí của Từ Hải luôn giương cao, không chịu luồn cúi trước triều đình ô trọc. Với Từ Hải, bọn quan lại trong triều chỉ là hạng “giả áo túi cơm” thấp kém, hèn hạ. Chỉ một từ láy “Nghênh ngang”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét cả thái độ và hành động cao ngạo, không sợ trời không sợ đất ở Từ Hải. Đoạn thơ cho thấy bản lĩnh, tài năng thao lược của Từ Hải. Sự xuất hiện của người hùng này tựa như sấm sét, làm đảo lộn giang sơn. Một xã hội công bằng, một cuộc sống ấm no luôn là ước mơ của nhân dân từ bao đời nay. Nếu trong văn học dân gian có chàng Thạch Sanh diệt đại bàng cứu công chúa, Thánh Gióng cưỡi ngựa đánh giặc Ân thì đến với văn học viết với “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, niềm tin ấy lại được thể hiện ở người anh hùng Từ Hài “Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo”.
Bằng bút pháp đậm tính sử thi, ngôn ngữ giàu tính ước lệ tượng trưng, xây dựng hình tượng nhân vật kì vĩ, đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” đã khắc họa thành công hình tượng nhân vật Từ Hải với lối sống cao đẹp, tinh thần trượng nghĩa, có sức mạnh và quyền uy phi thường nhưng cũng hết sức gần gũi, mộc mạc. Nhân vật là đại diện cho khát vọng hạnh phúc, hòa bình, chính nghĩa của nhân dân trong bất kì thời đại nào, góp phần làm nên sức sống bất diệt cho “Truyện Kiều”:
“Quê hương tôi có múa xoè, hát đúm
Có hội xuân liên tiếp những đêm chèo
Có Nguyễn Trãi, có “Bình Ngô đại cáo”
Có Nguyễn Du và chỉ một “Truyện Kiều”'
(Nguyễn Bính)
Bài tham khảo 2
Nguyễn Du đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm văn chương bất hủ. Trong đó có tác phẩm “Truyện Kiều” nói về người con gái tài sắc vẹn toàn nhưng lại bị chà đạp dưới thế lực phong kiến xưa. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn gửi gắm trong tác phẩm này một giấc mơ anh hùng, giấc mơ về tự do công bằng xã hội. Điều đó thể hiện qua nhân vật Từ Hải trong đoạn trích “Anh hùng tiếng đã gọi rằng” với bút pháp lãng mạn, hào sáng nhất.
Mở đầu đoạn trích là lời nói của Thúy Kiều:
Nàng từ ân oán rạch ròi
Bể oan dường đã vơi vơi cạnh long
Tạ ân lạy trước Từ công
“Chút thân bồ liễu nào mong có rày!”
Trộm nhờ sấm sét ra tay,
Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi
Đối mặt với Tù Hải, Kiều không thể hiện giống một người bạn nữa mà như một nạn nhân được ân nhân Từ Hải cứu vớt và che chở đã ra tay tế độ. Nếu Từ Hải là giấc mơ của Nguyễn Du thì ngay đến mơ Kiều cũng không nghĩ cuộc đời mình sẽ gặp được Từ Hải. Tự thấy mình không xứng với Từ Hải, Kiều ca ngợi Từ Hải như một bậc từ bi giáng thế cứu rỗi tâm hồn đầy oan trái, rửa sạch oan khiên cho mình. Bằng những từ ngữ mang tính ước lệ, Từ Hải hiện lên trong cái nhìn của Kiều thật phi thường, mang tầm vóc vũ trụ: “Trộm nhờ sấm sét ra tay”. Ơn nghĩa này với Kiều vô cùng rộng lớn, để rồi phải khắc vào xương, ghim sâu vào dạ, đời đời kiếp kiếp không thể nào quên:
Chạm xương Chéo dạ xiết chi
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây
Phẩm cách anh hùng bình dị, siêu phàm của Từ Hải không chỉ được bộc lộ qua lời nói của Kiều mà còn được khắc họa rõ nét qua chính lời nói của nhân vật. Với Kiều, việc Từ Hải đã cứu rỗi mình từ kiếp ô nhục hồi sinh trở về bậc mệnh phụ phu nhân là một ơn nặng nghĩa đầy cả đời không trả hết. Nhưng với Từ Hải, đều đó là việc quá đỗi thường tình:
Từ rằng: “Quốc sĩ xưa nay,
Chọn người tri kỉ một ngày được chăng?
Anh hùng tiếng đã gọi rằng:
Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha!
Huống chi việc cũng việc nhà,
Lọ là thâm tạ với là tri ân?
Từ Hải tự nhận mình là “quốc sĩ”, coi Kiều là “tri kỉ” nên việc giúp đỡ Kiều là việc nghĩa khí đương nhiên mà bậc hảo hán xưa nay vẫn xem trọng. Trong cuộc đời Từ Hải không có hai chữ “dung tha” cho bất cứ “bất bằng” nào ở xã hội. Chỉ với một câu nói đĩnh đạc là bậc anh hùng đã thể hiện lý tưởng cao đẹp như một lời thách đấu với tội ác, với bất công của cuộc đời. Trong khi Kiều thì coi trọng ân nghĩa, từ Hải thì xem đó là “việc nhà” đó chính là sự tương phản càng làm cho Từ Hải hiện lên lớn lao, vĩ đại hơn. Đó phải chăng cũng là nét oai hùng của kẻ sĩ? Phải chăng cũng là sự khâm phục, đề cao của Nguyễn Du về người anh hùng ngang tàn, lừng lẫy.
Từ Hải không chỉ biết mình mà còn rất biết người. Bậc anh hùng này là người có tình có nghĩa, thấu hiểu được nỗi đau và ước muốn thầm kín của Kiều:
Xót nàng còn chút song thân,
Bấy nay kẻ Việt người Tấn cách xa
Sao cho muôn dặm một nhà,
Cho người thấy mặt là ta cam lòng”
Ước mong riêng của Kiều đã được Từ Hải cảm nhận với tư cách là tri ân, tri kỉ. Tuy nàng không nói nhưng chàng tự cho mình cái bổn phận để thấu hiểu. Biết rằng Kiều có mong ước trở về cố hương, đoàn tụ với người thân, người anh hùng đó đã chủ động đáp ứng nguyện vọng đó nhưng với cách khác thường chỉ mong thấy Kiều được hạnh phúc thì “ta mới cam lòng”:
Vội truyền sửa tiệc quân trung
Muôn hình nghìn tướng hội đồng tẩy oan.
Thừa cơ trúc chẻ mái tan
Bình uy từ đấy sấm ran trong ngoài.
...
Nghênh ngang một cõi biên thùy,
Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương!
Trước cờ ai dám tranh cường?
Năm năm hùng cứ một phương hải tần.
Với đội quân hùng hậu đi đến đâu hùng hổ như vũ bão “trúc chẻ mái tan”, binh uy thì “sấm ran trong ngoài”. Từ Hải đã gây dựng nên triều đình làm chủ “một góc trời”, bày binh bố trận rõ ràng “Gồm hai văn võ, rạch đôi sơn hà”. Từ Hải đánh đến đâu thắng đến đấy như “gió quét mưa sa”, càn quét cả “năm thành cõi nam”. Đối với Từ Hải, bọn gian thần triều đình chỉ là “loài giá áo túi cơm” mà thôi. Từ Hải hiện lên dưới ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du oai phong lẫm liệt như vị thần linh huyền thoại, như bậc anh hùng sử thi. Từ Hải không hẳn chỉ giúp Kiều đổ đời mà còn hi sinh vì Kiều, đem đến hạnh phúc cho Kiều cũng như bao sinh linh khác. Với những ngôn từ đầy quyền uy: binh uy, bá vương, sơn hà,... hay những động từ chỉ sự mạnh mẽ, ngang tàn: trúc chè, gió quét mưa sa, đòi phen, ai dám,... Không gian vũ trụ trở thành khoảng không gian rộng lớn tung hoành y như khí chất hơn người của Từ Hải.
Đoạn trích trên thể hiện khát vọng tự do của Từ Hải thể hiện qua những câu từ cô đọng, ước lệ với tầm vóc hoành tráng của bậc nghĩa sĩ oai hùng. Với màu sắc sử thi và hình tượng kì vĩ, Nguyễn Du đã thành công đưa nhân vật Từ Hải từ một hảo hán trở thành bậc anh hùng đích thực. Đối với Nguyễn Du, Từ Hải như một con đại bàng mà mỗi khi cất cánh, nó che trở và cứu rỗi những con người thấp cổ bé họng, cứu rỗi nạn nhân của xã hội tăm tối mù mịt như cuộc đời Thúy Kiều.