Tác giả tác phẩm Thề nguyền và vĩnh biệt (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Thề nguyền và vĩnh biệt Ngữ văn lớp 11 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Thề nguyền và vĩnh biệt - Ngữ văn 11
I. Tác giả Uy-li-am Sêch-xpia
- Uy-li-am Sêch-xpia (1564-1616) là nhà viết kịch thiên tài của nước Anh và của nhân loại thời Phục hưng – thời kì được coi là “bước tiến bộ vĩ đại nhất từ trước đến bây giờ mà loài người chưa từng thất, một thời đại cần đến những con người khổng lồ và đã sinh ra được những con người khổng lồ”. Sếch- xpia là một con người như thế.
- Sếch-xpia sinh tại thị trấn Xtra- phốt thuộc miền Tây Nam nước Anh với khung cảnh thiên nhiên thanh tú, những câu chuyện và bài hát dân gian sinh động, tươi tắn. Bố ông là một thương nhân buôn bán ngũ cốc, len dạ và đã từng giữ chức thị trưởng. Năm 1578 do gia cảnh sa sút, ông phải thôi học để mưu sinh. Năm 1585, ông lên Luân Đôn để kiếm sống và giúp việc và giúp việc cho đoàn kịch của Hầu tước Xtow-ren-giơ, về sau trở thành nhà hát Địa cầu. Chính tại đây ông đã đi từ thân phận người giữ ngựa cho khách, soát vé, nhắc vở, đóng vai phụ rồi trở thành diễn viên, nhà viết kịch và đạo diễn.
- Từ năm 1654-1612 các vở kịch của ông giữ vị trí thống trị kịch trường Anh.
- Sự nghiệp biên kịch vĩ đại của ông rất đồ sộ, phong phú: 37 vở hài kịch, bi kịch, chính kịch bằng thơ xen văn xuôi, trong đó có những vở thành kiệt tác: Hăm –lét; Ô-ten-lô; Vua Lia; Người lái buôn thành Vơ-ni-dơ; Giấc mộng đêm hè; 12 chiếc ghê; Xê-da... Nhưng Sếch-xpia nổi tiếng nhất ở các vở bi kịch mà Rô-mê-ô và Giu-li-et là vở bi kịch đầu tiên.
- Đặc điểm nghệ thuật: Các tác phẩm của ông chủ yếu là hài kịch và kịch lịch sử, ông viết một cách rất tinh tế của nghệ thuật từ những năm cuối thế kỉ XVI, ông có phong cách nghệ thuật riêng trong sáng tác hài kịch của mình, riêng biệt và không giống với nghệ sĩ khác.
II. Đọc tác phẩm Thề nguyền và vĩnh biệt
Vườn nhà Ca-piu-lét.
Rô-mê-ôn ra.
Rô-mê-ô – Kẻ chưa từng bị thương thì há sợ gì sẹo.
Giu-li-ét xuất hiện trên cửa sổ.
Ấy, khe khẽ chứ ! Ánh sáng nào vừa loé trên cửa sổ kia ? Đấy là phương đông, và nàng Giu-li-ét là mặt trời ! – Vừng dương đẹp tươi ơi, hãy hiện lên đi, và giết chết ả Hằng Nga đố kị, héo hon và nhợt nhạt vì đau buồn khi thấy cô hầu của ả lại đẹp hơn ả rất nhiều. Ả ghen với em thế thì em theo ả làm gì ? Bộ cánh đồng cốt của ả xanh xao nhợt nhạt, chỉ hợp với những đồ ngu xuẩn, em hãy vứt nó đi. Đấy là người ta quý. Ôi ! Đấy là người ta yêu ! Ôi, giá nàng biết nhỉ ! – Nàng đang nói kìa, nhưng nàng có nói gì đâu : vậy là gì thế ? Đôi mắt nàng lên tiếng, ta sẽ đáp lời. Ta liều quá : có phải nàng nói với ta đâu, chẳng qua hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng, đã thiết tha nhờ mắt nàng lấp lánh, chờ đến lúc sao về. Ừ, nếu mắt nàng lên thay cho sao, và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ ? Vẻ rực rỡ của đôi gò má nàng sẽ làm cho các vì tinh tú ấy phải hổ ngươi, như ánh sáng ban ngày làm cho đèn nến phải thẹn thùng ; còn cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp không gian một làn ánh sáng tung bừng đến nỗi chim chóc sẽ lên tiếng hót vang và tưởng là đêm đã tàn. Kĩa, nàng tì má lên bàn tay ! Ôi! Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mơn trớn gò má ấy !
Giu-li-ét – Ôi chao!
Rô-mê-ô – Nàng lên tiếng! Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi ! Bởi đêm nay, nàng toả ánh hào quang, trên đầu ta, như một sứ giả nhà trời có cánh, đang cưỡi những áng mây lững lờ lướt nhẹ trên không trung, khiến những kẻ trần tục phải cố ngước đôi mắt trắng dã lên mà chiêm ngưỡng.
Giu-li-ét– Ôi, Rô-mê-ô, chàng Rô-mê-ô ! Sao chàng lại là Rô-mê-ô nhỉ ? Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi ; hoặc nếu không thì chàng hãy thề là yêu em đi, và em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa.
Rô-mê-ô – nói riêng – Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình nên lên tiếng nhỉ ?
Giu-li-ét – Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi. Nếu chẳng phải là người họ Môn-ta-ghiu thì chàng cũng vẫn cứ là chàng. Môn-ta-ghiu là cái gì nhỉ? Đó đâu phải là bàn tay, hay bàn chân, hay cánh tay, hay mặt mũi, hay một bộ phận nào đấy của cơ thể con người. Chàng ơi ! Hãy mang tên họ nào khác đi! Cái tên nó có nghĩa gì đâu ? Bông hồng kia, giá chúng ta gọi bằng một tên khác thì hương thơm cũng vẫn ngọt ngào. Vậy nếu chàng Rô-mê-ô chẳng mang tên Rô-mê-ô nữa, thì mười phân chàng cũng vẫn vẹn mười... Rô-mê-ô chàng ơi, chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi ; chàng hãy đem tên họ ấy, nó đâu phải xương thịt của chàng, đổi lấy cả em đây!
Rô-mê-ô – Đúng là miệng em nói thế đấy nhé ! Chỉ cần em gọi tôi là người yêu, tôi sẽ thay tên đổi họ ; từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa.
Giu-li-ét – Người là ai, mà khuất trong đêm tối, chợt biết được điều tôi ấp ủ trong lòng ?
Rô-mê-ô – Tôi không biết xưng danh cùng em thế nào. Nàng tiên yêu quý của tôi ơi, tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em. Nếu chính tay tôi đã viết tên đó, thì tôi xé nát nó ra.
Giu-li-ét – Tai tôi nghe chưa trọn một trăm tiếng thốt từ miệng đó ra mà tôi đã nhận ra tiếng ai rồi. Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là họ nhà Môn-ta-ghiu đấy ư ?
Rô-mê-ô – Hỡi nàng tiên kiều diễm, chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó.
Giu-li-ét – Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế ? Tường vườn này cao, rất khó trèo qua ; và nơi tử địa, anh biết mình là ai rồi đấy, nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp nơi đây.
Rô-mê-ô – Tôi vượt được tường này là nhờ đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu ; mấy bức tường đá ngăn sao được tình yêu ; mà cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm ; vậy người nhà em ngăn sao nổi tôi.
Giu-li-ét – Họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết chết anh.
Rô-mê-ô – Em ơi ! Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu.
Giu-li-ét – Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây.
III. Tìm hiểu tác phẩm Thề nguyền và vĩnh biệt
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: bi kịch.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Trích từ vở Rô-mê-ô và Giu-li-ét, in trong Tuyển tập tác phẩm William Shakespeare, ĐẶNG THẾ BÍNH dịch.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: tự sự.
4. Ý nghĩa nhan đề
Tình yêu say đắm giữa Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Những rào cản, khó khăn ngáng trở mối tình say đắm của họ.
5. Tóm tắt Thề nguyền và vĩnh biệt
Tác phẩm “Thề nguyền và vĩnh biệt” là một phân cảnh trong vở kịch đó. Đoạn văn bản nói về cảnh đầu tiên Rô- mê- ô và Giu- li- ét gặp gỡ, họ đã say mê nhau từ cái nhìn đầu tiên, bất chấp mọi giới hạn, họ đã cùng thề nguyền và sẵn sàng gạt bỏ mọi thù hận, sự ngăn cấm giữa hai dòng họ để tiến tới với nhau.
6. Bố cục văn bản Thề nguyền và vĩnh biệt
- Hồi II, cảnh II: Gặp gỡ (Thề nguyền).
- Hồi III, cảnh V: Chia tay (Vĩnh biệt)
7. Giá trị nội dung
- Khẳng định tình yêu trong sáng và chân thành của hai nhân vật chính.
- Ca ngợi tình yêu con người là một nội dung của chủ nghĩa nhân văn.
- Mối tình của họ khẳng định sức sống vươn dậy trên mọi hoàn cảnh của con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo thành kiến phong kiến, nguyên nhân thù hận của tình người, của chủ nghĩa nhân văn.
8. Giá trị nghệ thuật
- Xây dựng tình huống là bối cảnh không gian và thời gian tinh tế, hợp lý với cuộc trò chuyện của hai nhân vật, làm nổi bật tính chất của bi kịch tình yêu nam nữ.
- Ngôn ngữ kịch: Sử dụng các lời thoại linh hoạt, cách nói, lối nói hồn nhiên của hai nhân vật, cách sử dụng lối nói của nhau để xóa đi sự ngăn cách mà hận thù tạo ra.
-Hành động kịch: Đẩy các tình tiết đến cao trào và xung đột của kịch…
-Tính chất bi kịch: bức tường cao chia cắt hai nhân vật (tả thực và tượng trưng)-) xung đột giữa khát vọng cao đẹp của nhân vật với đời sống thực tiễn của xã hội (sự hận thù giữa hai dòng họ).
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, đặc biệt thành công ở những đoạn độc thoại nội tâm..
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thề nguyền và vĩnh biệt
1. Hồi II, cảnh II: Thề nguyền (Gặp gỡ)
a. Lời thoại và tâm trạng của Rô-mê-ô
a.1. Lời độc thoại:
- Vượt tường vào nhà Giu-li-ét
→ Bất chấp sự hiểm nguy, liều lĩnh, táo bạo, mãnh liệt.
- Thể hiện sự ngưỡng mộ của mình: ví Giu-li-ét như mặt trời, đôi mắt – vì sao, gò má – ánh sáng ban ngày…
→ Trái tim yêu chân thành đằm thắm.
- Dùng nhiều thán từ bộc lộ cảm xúc
+ “Ôi”- choáng ngợp, say đắm.
+ “Ước gì ta là chiếc bao tay… mơn trớn gò má ấy” – tình yêu cuồng nhiệt làm nảy sinh khao khát chinh phục, gần gũi ở Rô-me-ô
a.2. Lời đối thoại:
+ Sẵn sàng từ bỏ họ tên của mình
+ Vượt qua bức tường cao và sự nguy hiểm nhờ đôi cánh của tình yêu
+ “Em nhìn tôi âu yến là tôi chẳng
ngại lòng hận thù”….
→ Sức mạnh tình yêu vượt lên trên mọi nỗi sợ hãi vì “cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”
→ Rô-me-ô là chàng trai mạnh mẽ, dũng cảm, dám vượt lên mọi trở ngại để được sống thật với cảm xúc, sự rung động của trái tim.
a.3. Tâm trạng của Rô-me-ô:
Tình cảm chân thành, dù ngôn ngữ có vẻ khoa trương và khuôn sáo, thể hiện trái tim trẻ đang yêu nồng nàn, say đắm, lần đầu được chiêm ngưỡng người mình yêu- thiên thần hạnh phúc của mình, tìm mọi cách, mọi lời có cánh để biểu hiện lòng mình chủ động và đầy đam mê.
b. Lời thoại và tâm trạng của Giu-li-ét
b1. Lời độc thoại:
- Hai tiếng “Ối chao” thốt lên khi nhìn xuống vườn, thấy Rô-mê-ô, chàng trai vừa gặp đã làm nảy sinh tình yêu sét đánh. Nàng ngạc nhiên, lo lắng, lúng túng, hàm chứa tiếng thở dài lo âu vì chợt nhớ đến hận thù hai họ; cũng chưa thật hiểu chàng đến đây để làm gì? Liệu chàng có thật yêu mình không?
- Sự thù hận của hai dòng họ cứ ám ảnh cả hai người trong suốt cuộc đối thoại (Rô-mê-ô: 3 lần; Giu-li-ét: 5 lần): Tôi thù ghét cái tên của tôi; chẳng phải Rô-mê-ô, chẳng phải Mông-ta-ghiu; Từ nay tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa;Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ đi; chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi, nơi tử, địa; họ mà bắt gặp anh…
- Giu-li-ét khẳng định chỉ có sự thù hận của hai dòng họ, tình yêu của hai người không đột với hận thù ấy. Đây là quyết tâm xây đắp tình yêu của hai người.
- Hình ảnh thiên nhiên (âm thanh tiếng chim) không phải để khơi dậy hay khoét sâu hận thù mà chỉ để vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Cả hai đều ý thức được sự thù hận, song nỗi lo chung của cả hai là lo cho họ không được yêu nhau, không có được tình yêu của nhau.
b.2. Lời đối thoại:
- Khi nói với Rô-me-ô
+ Vừa ngạc nhiên, vừa lo lắng vì sự xuất hiện của Rô-mê-ô
+ Thật sự lo sợ cho tính mạng của chàng
+ Kín đáo chấp nhận tình yêu của Rô-me-ô
→ Giu-li-et là thiếu nữ chân thành, trong sáng, đón nhận tình yêu, bất chấp sự hận thù của hai dòng họ. Đó là khát vọng được sống thật với con người của mình.
b.3. Tâm trạng của Giu-li-ét:
- Giu-li-et khẳng định tình yêu tha thiết, mãnh liệt và chân thành, trong sáng dành cho Rô-me-ô
-Tâm trạng của Giu-li-ét không đơn giản như tâm trạng của Rô-mê-ô. Vì nàng là gái, yếu đuối hơn, dễ bị hoàn cảnh tác động hơn.
c. Ý nghĩa của những lời thoại:
- Những rào cản, khó khăn của mối thù truyền kiếp không thể ngáng trở tình yêu tha thiết, sâu đậm, chân thành của họ dành cho nhau. Vì tình yêu mà cả hai đều ghét bỏ chính tên họ của mình và sẵn sáng đổi nó để theo đuổi tình yêu
- Tình yêu chưa xung đột với thù hận mà chỉ diễn ra trên nền thù hận. Thù hận được nhắc tới không phải để khơi dạy, khoét sâu mâu thuẫn của 2 dòng họ mà chỉ để hướng tới cổ vũ sức mạnh để đôi bạn trẻ vững tin bước qua. Thù hận đã bị đẩy lùi, chỉ con tình người bao la, phù hợp với lý tưởng nhân văn.
2. Hồi 3, cảnh V: Vĩnh biệt (Chia ly)
a. Nhân vật Giu-li-et:
- Muốn níu kéo người yêu ở lại (Anh đi ư? Trời còn lâu mới sáng. Anh ơi, anh cứ tin lời em nói)
- Khi trời sáng: giọng điệu thúc giục, vội vàng, hoảng hốt ( Trời sáng rồi, trời sáng rồi! Anh ơi, đi đi, đi ngay đi; Anh ơi, anh đi đi. Trời mỗi lúc một sáng).
- Cách cảm nhận của Giu-li-ét về tiếng chim sơn ca: nàng phủ nhận âm thanh êm ái, thánh thót vốn có của loài chim sơn ca. →dự báo sự chia lìa, xa cách mà k biết hẹn ngày trở lại.
- Trong lời thoại của Giu-li-ét chứa đựng nhiều mâu thuẫn:
+ Giữa 1 bên là hiện thực tàn khốc, nghiệt ngã không thể thay đổi khi Rô-me-ô phải ra đi “em nhìn thấy anh đứng dưới đấy như thây ma nằm dưới mồ…”
+ Một bên luôn mong muốn, khát khao được sống mãi trong tình yêu “anh ơi có bao giờ chúng ta lại được gặp nhau nữa không?”
- Tâm trạng:
→ Sự đau đớn, mâu thuẫn giằng xé, bi quan trước hiện thực nghiệt ngã, phũ phàng. Nhưng dù có xa cách, chia lìa trong đau đớn thì Giu-li-et vẫn luôn hi vọng, khát khao, có niềm tin vào tình yêu vĩnh cửu.
b. Nhân vật Rô-me-ô
- Khát khao, hy vọng, mong muốn thiết tha, quyết tâm ở lại không muốn rời xa tình yêu “anh tha thiết muốn ở lại nơi đây, chẳng còn lòng nào cất bước”.
“Nhất định là sẽ có. Một ngày kia chúng ta sẽ ngồi bên nhau…ôn lại những nỗi ngậm ngùi ngày hôm nay”
- Trong lời thoài của Rô-mê-ô có sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối rõ rệt. Ánh sáng của ban ngày cũng chính là báo hiệu tương lai đầy u ám, đen tối. Bởi khi mặt trời lên là lúc Rô-mê-ô phải giã từ Giu-li-et để đi đày. Đó là một tương lai đầy thê thảm, mịt mù ở phía trước. Bi kịch, xung đột trong nhân vật thể hiện giữa một bên là hi vọng về tương lai tình yêu viên mãn hạnh phúc với một bên là đau xót khi phải chia tay người yêu
- Tâm trạng: lo âu, bất an, tiếc nuối. Nhưng ẩn sâu là trái tim luôn tràn đầy niềm tin, khát khao và hy vọng.
3. Tiểu kết
* Tính chất bi kịch của đoạn trích:
- Hồi 2, cảnh II: âm hưởng chính là sự chiến thắng của tình yêu trước mọi vật cản (hữu hình là bức tường, vô hình là sự thù hận của 2 dòng họ)
- Hồi 3, cảnh V: âm hưởng chính là sự chiến bại của tình yêu trước số phận và tai ương. Luôn có dấu hiệu báo trước cái chết và bi kịch.
* Chủ đề của đoạn trích:
- Ca ngợi tình yêu tự do, khát vọng yêu đương trong sự đối đầu của nó với thù hận và với những luật lệ hà khắc của xã hội phong kiến.
- Sức vươn dạy qua hoàn cảnh trói buộc, đe dọa để có được tình yêu, hạnh phúc của con người.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Thề nguyền và vĩnh biệt
Bài tham khảo 1
Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở kịch của nhà soạn kịch thiên tài Sếch-xpia trong thời đại Phục hưng. Đây là thời kỳ tiến bộ nhất mà nhân loại gọi là bước ngoặt của nhân loại. Chưa bao giờ tình yêu, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa nhân văn lên ngôi và được phản ánh mạnh mẽ trong thời kỳ này đến thế. Rô-mê-ô và Giu-li-ét cũng không nằm ngoài mạch cảm hứng sáng tác ấy. Vở kịch khá đồ sộ song có một số phân đoạn tiêu biểu như Thề nguyền và vĩnh biệt.
Vở kịch này nói về tình yêu thắm thiết, khăng khít của đôi bạn trẻ Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Nhưng trớ trêu thay họ lại sinh ra từ hai dòng họ có mối hiềm khích với nhau từ rất lâu. Thế nên tình yêu của họ bị cả dòng họ hết sức cấm cảm, chia lìa. Để bảo vệ tình yêu đôi bạn trẻ đã đi đến hành động quyết liệt tự tử, không thể bên nhau lúc còn sống thì trọn đời bên nhau ngay cả lúc chết. Chính cái chết của họ đã giúp cả hai dòng họ hoá giải mọi oán hờn. Qua đó tác phẩm đã tố cáo tội ác của chế độ phong kiến chà đạp lên hạnh phúc của con người, những định kiến cổ hủ giống như chiếc cùm gông khóa chặt ước mơ, khát vọng của con người. Đồng thời cũng ca ngợi tình yêu, ước mơ, dám thể hiện, dám đấu tranh của con người trước các thế lực phong kiến. Khẳng định giá trị của tình yêu đích thực sẽ giúp con người xóa bỏ mọi hận thù và xích lại gần nhau hơn.
Đoạn trích Thề nguyền và vĩnh biệt tập trung tái hiện cảnh đôi trai tài gái sắc gặp nhau sau đêm vũ hội. Trúng phải tiếng sét ái tình, họ đã tìm gặp nhau, trao cho nhau tình yêu, những lời thề nguyền hẹn ước đầy ân tình, rồi chia tay nhau trong nhớ thương. Mặc dù khi nghe danh xưng cả hai đều biết họ sẽ khó có thể đến được với nhau. Thế nhưng hai người vẫn yêu nhau một cách mãnh liệt, không thể chối bỏ được tình cảm của mình.
Trước mắt Romeo là một thiếu nữ xinh đẹp, ngọt ngào, chàng như đắm chìm vào trong vẻ đẹp đến u mê của nàng Giu-li-ét. Dưới con mắt của kẻ si tình nàng hiện lên giống như vầng mặt trời, làm lu mờ ánh sáng của mọi vị tinh tú khác. Đôi mắt nàng giống như hai ngôi sao đẹp nhất trên bầu trời, vẻ đẹp ấy khiến cho Romeo chết lặng và chàng cũng chẳng ngần ngại thổ lộ tình cảm của mình dành cho nàng.
Về phía Juliet nàng cũng có cảm mến với chàng trai này, trong tình yêu nàng cũng vô cùng chủ động, đáp lại tình cảm chân thành ấy. Không rụt rè, không e ngại, không giấu diếm, chủ nghĩa cá nhân, tự do trong tình yêu và hôn nhân đã được thể hiện qua hành động chủ động của đôi bạn trẻ. Dẫu biết rằng phía trước sẽ có rất nhiều chông gai, rào cản, mọi thứ sẽ không suôn sẻ nhưng đôi trẻ đã bỏ qua tất cả, chỉ trong giây phút này sống đúng với con tim của mình.
Đôi trẻ thể hiện tình yêu trong một không gian đặc biệt: vắng vẻ, kín đáo nhằm trốn tránh ánh mắt dò xét theo dõi của hai bên gia đình. Giữa một khung cảnh éo le như thế đôi trẻ đã bày tỏ tình cảm, hứa hẹn những điều tốt đẹp ở tương lai phía trước. Vì tình yêu đôi trẻ sẵn sàng hoá giải mọi thù hận của hai dòng họ. Điều đó chứng tỏ sức mạnh của tình yêu có giá trị và ý nghĩa lớn như thế nào.
Đoạn trích thề nguyền và vĩnh biệt tập trung xây dựng các cuộc đối thoại mang tính kịch giữa hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Ngôn ngữ đã được dịch nên chúng tôi không bàn nhiều, chúng tôi chỉ quan tâm đến kết cấu, tình huống được xây dựng. Với một tình huống, bối cảnh độc đáo và một kết cấu khá chặt chẽ, đoạn trích xứng đáng được đánh giá là một trong những đoạn trích hay nhất của vở kịch này.