Tác giả tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài Ngữ văn lớp 11 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài - Ngữ văn 11
I. Tác giả Nguyễn Huy Tưởng
- Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960)
- Quê quán: Hà Nội.
- Đóng góp nổi bật ở thể loại tiểu thuyết và kịch, tác phẩm của ông thường khai thác đề tài lịch sử
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ Kịch: Vũ Như Tô, Bắc Sơn
+ Tiểu thuyết: Sống mãi với Thủ Đô, An Tư
+ Kí: Kí sự Cao Lạng
+ Truyện thiếu nhi: Tìm mẹ, Lá cờ thêu sáu chữ vàng, …
=> Được đánh giá là nhà văn lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1996 ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật.
II. Đọc tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Lớp I
Vũ Như Tô – Đan Thiềm
Vũ Như Tô – Có việc gì mà bà chạy hớt hơ hớt hải ? Mặt bà cắt không còn hột máu.
Đan Thiềm (thở hổn hển) – Nguy đến nơi rồi... Ông Cả!
Vũ Như Tô – Lạ chưa, nguy làm sao ? Đài Cửu Trùng chia năm đã được một phần.
Đan Thiềm – Ông trốn đi, mau lên không thì không kịp.
Vũ Như Tô — Sao bà nói lạ ? Đài Cửu Trùng chưa xong, tôi trốn đi đâu. Làm gì phải trốn ?
Đan Thiềm – Ông nghe tôi ! Ông trốn đi ! Ông nghe tôi ! Ông phải trốn đi mới được !
Vũ Như Tô – Làm sao tôi cần phải trốn ? Bà nói rõ cho là vì sao ? Khi trước tôi nhờ bà mách đường chạy trốn, bà khuyên không nên, bây giờ bà bảo tôi đi trốn, thế là nghĩa gì ?
Đan Thiềm – Có nghĩa lắm. Tôi không làm một việc gì vô lí cả. Khi trước trốn đi thì ông nguy, bây giờ trốn đi thì ông thoát chết.
Vũ Như Tô – Sao thế ?
Đan Thiềm – Loạn đến nơi rồi. Dân gian đói kém nổi lên tứ tung. Giặc Trần Cao trước đã bị quan quân đuổi đánh, nay lại về đóng ở Bồ Đề, thanh thế rất mạnh. Trong triều, Nguyên Quận công Trịnh Duy Sản vì can vua mà bị đánh, nay mưu với mấy tên đồng chí, giả mượn tiếng đi dẹp giặc rồi quay binh về làm loạn.
Vũ Như Tôn – Tôi làm gì nên tội ?
Đan Thiềm – Vậy mà ai ai cũng cho ông là thủ phạm. Vua xa xỉ là vì ông, công khố hao hụt là vì ông, dân gian lầm than là vì ông, man di oán giận là vì ông, thần nhân trách móc là vì ông. Cửu Trùng Đài, họ có cần đâu ? Họ dấy nghĩa cốt giết ông, phá Cửu Trùng Đài.
Vũ Như Tôi – Phá Cửu Trùng Đài ? Không đời nào ! Mà tôi thì không làm gì nên tội. Họ hiểu nhầm.
Đan Thiềm – Ông phải trốn đi. (Có tiếng quân ầm ầm, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng tù và, tiếng ngựa hí). Ông phải trốn đi (lời có vẻ van lơn). Trong lúc biến cố này, ông hãy tạm lánh đi. Khi dân nổi lên, họ nông nổi vô cùng. Họ không phân biệt phải trái. Ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai tô điểm nữa.
Vũ Như Tô – Bà không nên lo cho tôi. Tôi không trốn đâu. Người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cũng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi để cả đây, thì tôi chạy đi đâu ?
Đan Thiềm – Ông Cả ! Ông nghe tôi. Trốn đi để chờ cơ hội khác. Đại sự hỏng rồi.
Vũ Như Tôn – Đa tạ bà. Tấm lòng của bà, chỉ có lòng cha mẹ tôi mới sánh kịp. Nhưng tôi đã quyết, không chịu rời Cửu Trùng Đài một bước. Tôi quyết ở đây.
Đan Thiềm (thất vọng) – Ông Cả ơi !
Lớp II
Những người trên, thêm Nguyễn Vũ
Nguyễn Vũ (lật đật và xộc xệch) – Kìa, thầy Cả.
Vũ Như Tô – Lạy Cụ lớn.
Nguyễn Vũ – Thầy có biết việc gì không ?
Vũ Như Tô – Bẩm Cụ lớn, không. Duy có bà Đan Thiềm đây vừa mới bảo với chúng tôi rằng Nguyễn Quận công làm phản.
Nguyễn Vũ (hất hàm hỏi Đan Thiềm) – Thế nào ?
Đan Thiềm – Chúng tôi cũng không rõ. Nghe như Quận công làm phản. Cụ lớn có biết tin gì thêm không ?
Nguyễn Vũ – Đúng thế đấy. Ta vừa chạy đến đây. Thiên tử đâu ? Chiều hôm kia ta còn uống rượu trong nội điện với Hoàng thượng.
Đan Thiềm (rú lên) – Cái gì đó ? (Có tiếng động ầm ầm ở xa). Họ tiến lại đây
chăng ? (Quay bảo Vũ Như Tô) Ông trốn đi, mau lên, khổ lắm (lắng tai). Có tiếng quân reo... (líu lưỡi).
Nguyễn Vũ – Ta lo cho Hoàng thượng lắm. Duy Sản là một đứa tiểu nhân. Nó vẫn căm giận Hoàng thượng và ta. Ta hối không can Hoàng thượng, lại để cho Ngài sai đánh nó quá đau, mà lại ở ngay giữa chợ. Thẹn quá hoá giận, đứa tiểu nhân thì nghĩ chỉ đến nghĩa vua tôi !
Đan Thiềm (quay bảo Vũ Như Tôi) – Ông định chết ở đây sao ? Ông gàn quá. Quận công có ưa gì ông đâu ?
Vũ Như Tô (sẵng) – Bà để mặc tôi. Tôi tự có cách khu xử.
Đan Thiềm – Đấy, tiếng reo mỗi lúc một gần. Kìa, thái giám, chắc có tin gì ? Nội giám hoảng hốt vào.
Lớp III
Những người trên, thêm Lê Trung Mại
Lê Trung Mại – Bẩm Cụ lớn, nguy đến nơi rồi. Kìa mụ Đan Thiềm sao lại ở đây? Mụ ra là giống quái...
Nguyễn Vũ – Có việc chi, Trung Mại ?
Lê Trung Mại – Bẩm Cụ lớn, Trịnh Duy Sản mưu với lũ Lê Quảng Đô, Trịnh Tri Sâm lập vua khác, đêm qua đã kéo quân vào cửa Bắc Thần...
Nguyễn Vũ – Thiên tử đâu ?
Lê Trung Mại – Bẩm, nguyên Trịnh Duy Sản sắm sửa thuyền bè khí giới, họp ở bến đò Thái Cực, nói reo lên là đi đánh Trần Cao, rồi đương đêm đem ba nghìn quân Kim Ngô hộ vệ vào của Bắc Thần đốt lửa cho sáng...
Nguyễn Vũ (nóng ruột, giậm chân gắt) – Thiên tử đâu ? Nói mau lên.
Lê Trung Mại – Hoàng thượng trông thấy lửa sáng, hốt hoảng tưởng là giặc ập đến vội lên ngựa lẻn ra cửa Bảo Khánh, trời thì tối mà cứ lao mình đi không đèn đuốc gì cả. Khi Ngài qua cửa Thái Học đến ao Chu Tước ở phường Bích Câu thì vừa gặp Duy Sản...
Nguyễn Vũ – Gặp Duy Sản ? Trời ! Thế thì còn gì ? Nói mau lên.
Lê Trung Mại – Ngài hỏi nó : Giặc ở đâu ? Nó không đáp, ngoảnh mặt đi cười nhạt. Ngài quất ngựa về phía tây, nó sai võ sĩ là tên Hạch đuổi theo, đâm vua ngã ngựa rồi giết chết (khóc).
Nguyễn Vũ (khóc) – Hoàng thượng ơi ! Hạ thần mới nghe câu chuyện đã đoán ngay có sự này (cảm động quá, ngã xuống).
Lê Trung Mại (nức nở ) – Khốn nạn, Khâm đức Hoàng hậu thương vua cũng nhảy vào lửa chết... (không nói được nữa).
Vũ Như Tô – Xin Cụ lớn hãy để nghe xem có thực không đã. Không có lẽ... (vực Nguyễn Vũ dậy). Bẩm Cụ lớn.
Nguyễn Vũ (vẫn khóc) – Thực đấy rồi. Thôi để mặc ta. Duy Sản ta đã biết, nó tàn nhẫn vô cùng. Hoàng thượng ơi ! Ơn tri ngộ mới được tám năm... Hoàng thượng băng hà, lão thần cũng không yên được với chúng. Ăn lộc của vua, xin chết vì nạn của vua. Lão thần không muốn kéo dài kiếp sống tàn làm gì nữa (rút dao đâm cổ tự tử và ngã lăn ra.
Lê Trung Mại – Trời ơi ! Cụ lớn Đông các ! (Vực dậy, máu me đầm đìa).
Nguyễn Vũ – Thôi mặc ta cho ta chết. Sống chỉ thêm nhục nhã. (Ngất đi).
Vũ Như Tô (nhìn Đan Thiềm, nhìn thây Nguyễn Vũ) – Thảm não chưa ?
Lê Trung Mại (sờ người Nguyễn Vũ) - Có lẽ Cụ lớn chết rồi. Sao chóng thế được ? Chết thực rồi.
Đan Thiềm (thở dài) – Biến đến thế là cùng !
Một bọn nội giám nữa vào.
Lớp IV
Những người trên, thêm một bọn nội giám khác
Một tên nội giám – Cụ lớn làm sao ? Tình thế nguy ngập ! Đứng ở đây để chết cả lũ ư?
Lê Trung Mại – Việc chi nữa ?
Tên nội giám – Trịnh Duy Sản giết Thiên tử, hội triều đình lập con Mục Y Vương là Quang Trí lên ngôi. Có Võ Tả Hầu là Phùng Mai đứng lên mắng quân phản nghịch. Đảng ác bắt Phùng Mai chém ngay ở nhà Nghị sự. Trong triều còn đang rối loạn thì An Hoà Hầu Nguyễn Hoằng Dụ, ở bên Bồ Đề được tin vua bị giết, kéo quân về đốt phá kinh thành. Thợ xây Cửu Trùng Đài quá nửa theo về quân phản nghịch. Tình thế nguy ngập lắm rồi.
Vũ Như Tô – Thợ theo quân phản nghịch ? Thế còn Cửu Trùng Đài ?
Tên nội giám – Kẻ phá, người đốt...
Vũ Như Tô – Vô lí.
Bọn nội giám – Vô lí ? Vô lí ? Để Cửu Trùng Đài làm gì ? Vì đâu mà có quân phản nghịch ? An Hoà Hầu đang cho tìm mấy lũ cung nữ để phanh thây làm trăm mảnh. Mày không biết tội hay sao ?
Vũ Như Tô – Vô lí. (Có tiếng kêu mỗi lúc một gần : “Bạo chúa đã chết. Còn thằng Vũ Như Tô, đem phanh thây trăm mảnh”. Có tiếng đổ ầm ầm. Họ chạy cả).
Lê Trung Mại (nháy bọn nội giám) – Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách. Tham quyền cố vị gì, anh em nghĩ sao ?
Bọn nội giám – Chạy đi anh em ơi ! (Họ chạy nốt).
Lớp V
Vũ Như Tô – Đan Thiềm
Đan Thiềm – Ông Cả ! Ông chạy đi ! Ông có nghe tiếng gì không ? Quân giặc đang tìm ông đấy : trốn đi !
Vũ Như Tô – Họ tìm tôi, nhưng có lí gì họ giết tôi. Tôi có gây oán gây thù gì với ai ?
Đan Thiềm – Ông đừng mơ mộng nữa. Dân chúng nông nổi, dễ sinh tàn ác. Họ không hiểu công việc của ông. Tránh đi ! Trốn đi ! Đợi thời là thượng sách. Đừng để phí tài trời. Trốn đi !
Vũ Như Tôn – Còn bà ?
Đan Thiềm – Tôi ở đây. (Có tiếng quân reo dữ dội : “Giết chết Vũ Như Tô, giết chết lũ cung nữ”).
Vũ Như Tô (thản nhiên) – Bà ở đây. Vậy tôi cũng ở đây, nguy biến ta cùng chịu.
Đan Thiềm – Không được ! Tôi chết đi không thiệt hại cho đời. Còn ông, ông phải đi đi mới được. (Có tiếng nhà đổ, tiếng của đổ). Ông đi đi không thì không kịp.
(Nàng chắp tay lạy) Tôi xin ông, ông nghe tôi trốn đi.
Có tiếng giày dép nhốn nháo. Bọn cung nữ hốt hoảng đi vào.
Lớp VI
Những người trên – Kim Phượng – cung nữ
Kim Phượng (khóc lóc) – Làm thế nào bây giờ ? Cửa điện bị chúng phá rồi !
Chúng đứng đầy ngoài sân. (Hỏi Đan Thiềm) Đây có cửa ra đằng sau không ?
Đan Thiềm - Đến đây là đường cùng rồi ! Đây là tử địa !
Cung nữ – Trời ơi !
Đan Thiềm (bảo Vũ Như Tô) – Ông Cả ơi ! Có trốn cũng không được nữa. Ông nguy mất (nàng khóc).
Quân khởi loạn kéo vào, gươm giáo sáng loè.
Lớp VII
Những người trên, thêm Ngô Hạch và quân khởi loạn
Quân khởi loạn – Đây rồi ! Vũ Như Tô ! Lũ cung nữ!
Ngô Hạch – Quân bay, vào bắt lũ cung nữ trước.
Cung nữ (quỳ xuống) – Trăm lạy tướng quân, trăm lạy tướng quân.
Ngô Hạch – Ta vâng tướng lệnh vào bắt các ngươi.
Kim Phượng (quỳ xuống) – Chị em chúng tôi không có tội gì. Xin tướng quân sinh phúc. (Đan Thiềm bĩu môi thở dài). Kẻ hay xúc xiểm vua là ả kia (chỉ Đan Thiềm). Chính nó mê hoặc vua. Chính nó dan díu với Vũ Như Tô, làm uế tạp nơi cung cấm, chính nó là thủ phạm.
Cung nữ – Chính nó là thủ phạm.
Đan Thiềm – Lũ yêu quái không được đặt để nên nhời, tướng quân nên thấu cho. Tôi không sợ chết, nguyện xin được chết. Nhưng tôi không phải là con người bất chính, tôi nói thế không hổ với quỷ thần hai vai, không hổ với thanh thiên bạch nhật.
Cung nữ – Chính con Đan Thiềm là thủ phạm. (Nhìn lẳng lơ, bọn quân sĩ như bị quyến rũ).
Ngô Hạch – Ta đã biết ! Quân bay, vào bắt lấy gian phu dâm phụ.
Đan Thiềm – Tướng quân không nên nói thế.
Vũ Như Tôn – Giết thì cứ giết, nhưng đừng nghi oan.
Đan Thiềm – Tướng quân nghe tôi. Bao nhiêu tội tôi xin chịu hết. Nhưng xin tướng quân tha cho ông Cả. Ông ấy là một người tài....
Quân khỏi loạn (cười ầm) – Thế mà còn mở mồm cãi. Mày chết để chồng mày sống à.
Đan Thiềm – Các người chỉ nghĩ những điều quá quắt.
Quân khởi loạn – Chúng ông chỉ có thế, con đĩ già câm miệng.
Ngô Hạch – Trói cổ nó lại.
Đan Thiềm (quỳ xuống) – Tướng quân tha cho ông Cả. Nước ta còn cần nhiều thợ tài để tô điểm.
Ngô Hạch (cười ha hả) – Cần thợ tài để tô điểm. Để hao hụt công khố, để dân gian lầm than.
Vũ Như Tô – Đan Thiềm, bà đứng dậy. Sao bà lẩn thẩn thế, lạy cả một đứa tiểu nhân ?
Đan Thiềm (đứng dậy) – Tướng quân hãy nghe tôi, đừng phạm vào tội ác.
Đừng giết ông Cả. Kẻo tướng quân mang hận về muôn đời ! Tha cho ông Cả. Tôi xin chịu chết.
Ngô Hạch (truyền) – Trói cổ con đi già lại.
Đan Thiềm – Tướng quân tha...
Quân khỏi loạn (xúm vào trói nàng) – Đừng nói nữa vô ích, con dâm phụ.
Đan Thiềm - ... Tha cho ông Cả.
Ngô Hạch (thấy Như Tô chạy lại) – Trói thằng Vũ Như Tô lại (quân sĩ xông vào trói chàng có vẻ đắc ý).
Đan Thiềm (thất vọng) – Chỉ tại ông không nghe tôi, dùng dằng mãi. Bây giờ... (nói với Ngôn Hạch) Xin tướng quân...
Ngô Hạch – Dẫn nó đi, không cho nó nói nhảm nữa, ròm tại (quân sĩ dẫn nàng ra).
Đan Thiềm – Ông Cả ! Đài lớn tan tành ! Ông Cả ơi ! Xin cùng ông vĩnh biệt !
(Họ kéo nàng ra tàn nhẫn).
Lớp VIII
Những người trên, trừ Đan Thiềm
Vũ Như Tô – Xin đa tạ tấm lòng tri kỉ. Đan Thiềm, xin cùng bà vĩnh biệt ! (Buồn rầu, trấn tĩnh ngay) Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một đài vĩ đại để tạ lòng tri kỉ.
Ngô Hạch (chỉ bộn cung nữ bảo mấy tên quân) – Dẫn họ về dinh ta đợi lệnh.
Mấy tên quân – Xin vâng lệnh (dẫn cung nữ ra).
Vũ Như Tô (khinh bi) – Mi thực là một tên bỉ ổi. Sao trời lại để cho mi sống làm nhục cương thường!
Ngô Hạch – Dẫn thằng này về trình chủ tướng.
Vũ Như Tô (đầy hi vọng) – Dẫn ta ra mắt An Hoà Hầu, để ta phân trần, để ta giảng giải, cho người đời biết rõ nguyện vọng của ta. Ta tội gì. Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài ra xây cho nòi giống một toà đài hoa lệ, thách cả những công trình sau trước, tranh tinh xảo với hoá công. Vậy thì ta có tội gì ? Ta xây Cửu Trùng Đài có phải đâu để hại nước ? Không, không, Nguyễn Hoằng Dụ sẽ biết cho ta, ta không có tội và chủ tướng các người sẽ cởi trói cho ta để ta xây nốt Cửu Trùng Đài, dựng một kì công muôn thuở...
Quân sĩ (cười ầm) – Câm ngay đi. Quân điên rồ, câm ngay đi không chúng ông vả vỡ miệng bây giờ. Mày không biết mấy nghìn người chết vì Cửu Trùng Đài, mẹ mất con, vợ mất chồng vì mày đó ư ? Người ta oán mày hơn oán quỷ. Câm ngay đi.
Vũ Như Tô — ... Vài năm nữa, đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai...
Quân sĩ – Câm mồm !
Vũ Như Tô – ... Xuất hiện...
Quân sĩ – Câm mồm ! (Họ xúm vào vả miệng Vũ Như Tô).
Vũ Như Tô – Ta có thù oán gì với các người ?
Ngô Hạch – Dẫn nó ra pháp trường. Không để nó nói nhảm trước mặt chủ tướng mất thì giờ.
Quân sĩ – Ra pháp trường !
Vũ Như Tô – Không, dẫn ta ra mắt chủ tướng. Ta muốn nói chuyện với An Hoà Hầu. Các người không hiểu được ta. (Có tiếng ầm ầm như long trời lở đất).
Mọi người – Cái chỉ nghe kinh người ?
Một lũ quân vào.
Lớp IX
Những người trên, thêm một lũ quân
Ngô Hạch . Chúng bay đi đâu ?
Lũ quân – Bẩm tướng quân ! Kinh thành phát hoả !
Ngô Hạch – Ai ra lệnh ấy ?
Một tên quân – Chính An Hoà Hầu!
Vũ Như Tô – Chính An Hoà Hầu ! Thế Cửu Trùng Đài ?
Lũ quân – Cửu Trùng Đài ư? Dã tràng xe cát(1) ! Cửu Trùng Đài sắp là một đống tro tàn !
Vũ Như Tô – Vô lí ! Vô lí !
Ngô Hạch – Rõ quân ngu muội ! Đến đầu mày chả chắc, nói chỉ đến Cửu Trùng Đài mà còn tin tưởng.
Vũ Như Tô – Đời ta không quý bằng Cửu Trùng Đài.
Quân sĩ – Giống vật không biết nhục.
Ngô Hạch – Dẫn nó đi. (Chợt có ánh lửa sáng rực, cả tàn than, bụi khói bay vào).
Vũ Như Tô (nhìn ra, rú lên) – Đốt thực rồi ! Đốt thực rồi ! Ôi đảng ác ! Ôi muốn phần căm giận ! Trời ơi ! Phú cho ta cái tài làm gì ? Ôi mộng lớn ! Ôi Đan Thiềm ! Ôi Cửu Trùng Đài ! (Có tiếng hô vui vẻ : “Cửu Trùng Đài đã cháy !”)
Quân sĩ – Thực đáng ăn mừng.
Vũ Như Tô (chua chát) – Thôi thế là hết. Dẫn ta đến pháp trường !
III. Tìm hiểu tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: bi kịch.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Vở kịch được hoàn thành vào hè năm 1941; đề tựa vào 6/1942.
- Vở kịch dựa trên một sự kiện lịch sử xảy ra ở kinh thành Thăng Long thời Hậu Lê (1516 – 1517).
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: tự sự.
4. Ý nghĩa nhan đề
- Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài cũng là vĩnh biệt vẻ đẹp cao siêu, lí tưởng mà con người (trong những hoàn cảnh nhất định) khó lòng đạt tới. Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài cũng nhằm kết thúc mọi oán thán, hận thù của con người do nó mà trở nên lao khổ hay độc ác.
- Nhan đề tác phẩm chứa đựng nhiều ẩn ý nhưng cũng là một lời chào vĩnh biệt trực tiếp sự huỷ diệt của đài Cửu Trùng.
5. Tóm tắt Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Biết tin có binh biến, bạo loạn nguy hiểm đến tính mạng Vũ Như Tô, Đan Thiềm hết lời khuyên và giục chàng đi trốn. Nhưng Vũ khăng khăng không nghe vì tự thấy mình không có tội. Cuối cùng, khi Đan Thiềm bị bắt, quân khởi loạn đốt Cửu Trùng đài, Vũ Như Tô mới tỉnh ngộ, vĩnh biệt Cửu trùng đài.
6. Bố cục văn bản Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
- Phần 1 (từ lớp I đến lớp VI): Cuộc trò chuyện giữa Vũ Như Tô với Đan Thiềm, cung nữ và nội giám, Vũ Như Tô bàng hoàng nhận ra bi kịch đang cận kề.
- Phần 2 (từ lớp VII đến lớp IX): Quân phản loạn đốt Cửu Trùng Đài và kết án Vũ Như Tô.
7. Giá trị nội dung
- Đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài đặt ra vấn dề sâu sắc có ý nghĩa muôn thuở về cái đẹp, về mối quan hệ giữa người nghệ sĩ và nhân dân, đồng thời tác giả cũng bày tỏ niềm cảm thông, trân trọng đối với người nghệ sĩ tài năng, giàu khát vọng nhưng rơi vào bi kịch.
8. Giá trị nghệ thuật
- Ngôn ngữ kịch điêu luyện, có tính tổng hợp cao, nhịp điệu của lời thoại nhanh.
- Mâu thuẫn tập trung phát triển cao, hành động dồn dập, đầy kịch tính.
- Tính cách tâm trạng nhân vật bộc lộ rõ nét qua ngôn ngữ, hành động.
- Các lớp kịch được chuyển linh hoạt, tự nhiên, liền mạch.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
1. Tình huống và xung đột kịch
a. Sự kiện chính và nhân vật kịch
(1) Đam Thiềm báo tin quân phản loạn, giục Vũ Như Tô trốn nhưng Vũ Như Tô nhất quyết ở lại ;
(2) Lê Trung Mại xuất hiện, báo tin Trịnh Duy Sản làm phản, vua và hoàng hậu đã chết. Nguyên Vũ tự sát theo vua.
(3) Bọn nội giám chi biết quân phản loạn đã phá kinh thành, đốt Cửu Trùng Đài. Lê Trung Mại và bọn nội giám chạy trốn nhưng Vũ Như Tô vẫn nhất quyết ở lại
(4) Ngô Hạch và quân khởi loạn vào thành bắt đám cung nữ và Đam Thiềm. Đan Thiềm cầu xin tha mạng cho Vũ Như Tô.
(5) Vũ Như Tô hi vọng An Hòa Hầu sẽ để ông tiếp tục xây Cửu Trùng Đài nhưng khi biết đó là người lệnh đốt Cửu Trùng Đài, Vũ Như Tô vô cùng tuyệt vọng và chấp nhận cái chết.
=> Các chỉ dẫn sân khấu gợi không khí căng thẳng, kịch tính, cho thấy tình thế ngày càng biến loạn, nhân vật rơi vào tình thế nguy cấp ;
=> Các nhân vật xuất hiện ngày một nhiều, đẩy diễn biến kịch lên đến cao trào, xung đột kịch căng thẳng – tái hiện không khí lịch sử biến loạn và số phận bi kịch của con người ;
=> Các sự kiện tập trung hướng đến một tình huống ; đồng thời nối tiếp hợp lí tạo nên những yếu tố bất ngờ, lôi cuốn – Cốt truyện kịch tập trung cao độ, được thể hiện bằng nhịp điệu gấp, tình tiết bất ngờ, tạo căng thẳng đầy kịch tính.
b. Tình huống kịch
- Nội dung: Trịnh Duy Sản dấy binh làm loạn, giết vua, đốt Cửu Trùng Đài, lùng bắt Vũ Như Tô.
- Ý nghĩa: Nổi bật xung đột kịch và bộc lộ tính cách nhân vật
+ Đan Thiềm: Không màng đến bản thân, một mực bảo vệ Vũ Như Tô -> Trọng người tài
+ Vũ Như Tô: Nhất quyết ở lại với Cửu Trùng Đài – Cương trực, lãng mạn, đầy lí tưởng
+ Nguyên Vũ: chết theo vua – Tận trung
+ Lê Trung Mại và đám nội gián chạy trốn – Hèn nhát, phản trắc;
+ Đám cung nữ: vu oan cho Đan Thiềm và quyến rũ binh sĩ – Ham sống, cơ hội, giả dối
+ Ngô Hạch và đám quân sĩ đắc thắng khi bắt Vũ Như Tô và đốt Cửu Trùng Đài – Thực dụng, thô lỗ, nông nổi
c. Xung đột kịch
- Biểu hiện: qua mâu thuẫn gay gắt, quyết liệt giữa các tuyến nhân vật
- Thực chất:
+ Đối lập giữa người dũng cảm, trung thực, có lí tưởng cao cả với những kẻ thực dụng, ích kỉ, hung bạo và cả một xã hội tầm thường, dung tục.
+ Xung đột giữa lí tưởng nghệ thuật cao cả của một nghệ sĩ chân chính với đời sống lầm than, cơ cực, khốn khổ của nhân dân.
-Ý nghĩa:
+ Nổi bật thân phận bi kịch của người nghệ sĩ chân chính sinh nhầm thời;
+ Khẳng định sức mạnh của khát vọng, lí tưởng cao cả
+ Đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực, giữa thiện và mĩ.
2. Nhân vật Vũ Như Tô
a. Tài năng, phẩm chất của Vũ Như Tô
- Là một kiến trúc sư tài ba “ngàn năm chưa dễ có một”: “Chỉ vẩy bút là chim, hoa đã hiện lên trên mảnh lụa thần tình biến hoá như cảnh hoá công, có thể sai khiến gạch đá như viên tướng cầm quân, có thể xây dựng lâu đài cao cả, nóc vờn mây mà không hề tính sai một viên gạch nhỏ”.
- Nhân cách cao cả, hoài bão lớn lao, nghệ sĩ chân chính, gắn bó với nhân dân, không khuất phục trước uy quyền, kiên quyết không chịu nhận xây lâu đài cho vua Lê Trương Dực.
- Không hám lợi, chia hết vàng bạc vua thưởng cho thợ.
- Khát khao suốt đời là xây được một tòa lâu đài nguy nga tráng lệ, bền vững muôn đời, để dân ta nghìn thu hãnh diện.
=> Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài ba, có lí tưởng nghệ thuật cao cả, có nhân cách lớn, đáng được tôn trọng, ngợi ca.
b. Bi kịch của Vũ Như Tô
*Phản ứng của Vũ Như Tô trước tình thế
Lớp |
Sự kiện |
Phản ứng |
1, 2 |
Đan Thiềm khuyên VNT đi trốn |
'Tôi làm gì nên tội, họ hiểu nhầm….' =>Không tin mình bị coi là kẻ thù của ND, quyết tâm bảo vệ CTĐ |
3, 4, 5 |
Tình thế trở nên căng thẳng |
'Vô lí, họ tìm tôi nhưng có lí gì họ giết tôi, tôi có gây oán thù gì với ai…. ' => Vũ Như Tô đấu lí, tranh phải trái với số phận |
6, 7, 8 |
Quân phản loạn ập vào, VNT, ĐT bị bắt |
'Dẫn ta gặp An Hòa hầu… Ta tội gì? Không, ta chỉ có một hoài bão là tô điểm cho đất nước' => VNT vẫn hi vọng, đắm chìm trong giấc mộng CTĐ |
9 |
Khi tận mắt chứng kiến CTĐ bị đốt |
'Đốt thực rồi, Ôi, muôn phần căm giận… Thế là hết, dẫn ta ra pháp trường' => VNT kinh hoàng, tuyệt vọng. Nỗi đau vỡ mộng thốt lên thành tiếng kêu bi thiết, não nùng.VNT bình thản đón nhận cái chết. |
* Kết quả:
- Cửu Trùng đài bị thiêu hủy
- Người tri kỉ phải ra đi
- Bản thân Vũ Như Tô bị đưa ra pháp trường
=> Kết thúc bi kịch: sự sụp đổ của cái đẹp và cái chết của người nghệ sĩ
* Nguyên nhân của bi kịch:
- Xung đột không thể hóa giải giữa Cái Đẹp và Cái Thiện
- Xung đột giữa khát vọng và thực tiễn
- Do những lầm lạc trong suy nghĩ và hành động của nhân vật:
+ Suy nghĩ: tách cái Đẹp khỏi cái Thiện, tách Nghệ thuật khỏi Đời sống, tách Nghệ sĩ khỏi Nhân dân
+ Hành động: Lợi dụng tiền bạc và quyền thế của Lê Tương Dực để xây CTĐ (thực tế là xây CTĐ trên máu và nước mắt của nhân dân)
+ Niềm tin sai lầm: Tin vào An Hòa Hầu, tin vào sự chính đại quang minh của bản thân, tin vào người đời sau sẽ hiểu
=> Nhận xét:
- Vũ Như Tô vừa có tội vừa không có tội, vừa đáng trách, vừa đáng thương. Cửu Trùng đài không thành vừa đáng mừng, vừa đáng tiếc.
- VNT là người tài, nhưng chưa phải hiền tài, CĐT là tuyệt mĩ nhưng chưa phải tuyệt thiện.
- Thái độ của tác giả đối với nhân vật: vừa cảm thương, vừa trân trọng, vừa nhiều trăn trở, tiếc xót.
3. Nhân vật Đan Thiềm
- Là một cung nữ thất sủng có những suy nghĩ táo bạo, những khát vọng lớn lao, đôi khi vượt tầm thời đài, vượt ngưỡng nhận thức của người đương thời.
+ Đan Thiềm ước mơ nước ta có một Cửu Trùng Đài tráng lệ, để tự hào, để ngợi ca
+ Đan Thiềm khuyên Vũ Như Tô lợi dụng tiền bạc, quyền thế của Lê Tương Dực để thực hiện lí tưởng.
- Đan Thiềm là người biệt nhỡn liên tài, đam mê, trân trọng cái tài, cái đẹp
+ Đan Thiềm say mê, trân trọng tài năng của Vũ Như Tô – môt kiến trúc sư thiên tài;
+ Bà luôn khích lệ Vũ Như Tô xây dựng Cửu Trùng Đài, không ngại thị phi, sẵn sàng quên mình để cái Đẹp được ra đời, người Tài được dịp thể hiện
-Đan Thiềm cũng là người luôn tỉnh táo, hiểu đời, hiểu mình, thức thời, biết thích ứng hoàn cảnh.
+ Bà từng khuyên Vũ Như Tô lợi dụng quyền thế, tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện lí tưởng;
+ Khi biết Cửu Trùng Đài không thể hoàn thành, bà chỉ bảo vệ an toàn cho Vũ Như Tô, khuyên ông bỏ trốn.
+ Quân nổi loạn đến, bà van lạy buông tha cho Vũ Như Tô, sẵn sàng chịu chết thay để giữ lại một người tài hoa cho đất nước.
=> Qua nhân vật Đan Thiềm, tác giả đặt ra vấn đề về căn bệnh độc tôn cái Tài, cái Đẹp và những giá trị dân tộc, giá trị lâu dài; đồng thời bày tỏ niềm hi vọng vào một thứ nghệ thuật thanh cao có thể vượt thoát lên thực tại tầm thường.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài
Bài tham khảo 1
Trong làng kịch hiện đại Việt Nam, bên cạnh Lưu Quang Vũ tài năng, vực dậy cả một nền văn học kịch đang trên đà tuột dốc, ta cũng không thể không nhắc đến Nguyễn Huy Tưởng một trong những nhà viết kịch và tiểu thuyết xuất sắc. Các tác phẩm của ông thường đi khai thác các đề tài lịch sử và tác phẩm Vũ Như Tô là tác phẩm nổi bật nhất. Xung đột kịch được đẩy lên đến cao trào và được giải quyết ở hồi thứ 5 “Vĩnh biệt cửu trùng đài” qua đó thể hiện quan niệm sâu sắc của ông về cuộc đời và nghệ thuật.
Vũ Như Tô là một kiến trúc sư tài giỏi, bị Lê Tương Dực – tên vua tàn bạo bắt xây Cửu Trùng Đài thành nơi để hắn ăn chơi, hưởng lạc. Là một người nghệ sĩ chân chính, Vũ Như Tô đã không nhận lời dù có bị hắn đe dọa sẽ giết chết. Nhưng Đam Thiềm một cung nữ đã thuyết phục được ông xây Cửu Trùng Đài. Cửu Trùng Đài xây cao bao nhiêu, lòng dân oán hận Vũ Như Tô bấy nhiêu. Lợi dụng tình thế đó Trịnh Duy Sản đã dấy binh nổi loạn. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là sự tiếp nối các sự kiện đang bị đẩy lên đến cao trào đó.
Mở đầu tác phẩm là tiếng hoảng hốt của Đam Thiền, khuyên Vũ Như Tô hãy mau trốn đi. Cơn biến loạn xảy ra ở kinh thành nên tình trạng của Vũ Như Tô hết sức nguy hiểm, nhưng Vũ Như Tô lại nhất định không trốn, không nghe lời khuyên của Đam Thiền bởi “Những người quân tử không bao giờ sợ chết. Mà vạn nhất có chết, thì cùng phải để cho mọi người biết rằng công việc mình làm chính đại quang minh. Tôi sống với Cửu Trùng Đài, chết cũng với Cửu Trùng Đài. Tôi không thể xa Cửu Trùng Đài một bước. Hồn tôi dể cả ở đây, thì tôi chạy đi đâu?”. Ông hi sinh hết mình cho nghệ thuật, ông cố thủ ở lại cũng mong Cửu Trùng Đài sẽ được hoàn thiện, để tranh tinh xảo với hóa công. Nhưng ông nào biết, chính quyết định đó đã khiến ông nhận lấy cái chết oan nghiệt, đến cả lúc chết ông vẫn không thể lí giải vì sao mình phải chết.
Khi nhận lời xây dựng Cửu Trùng Đài bản thân Vũ Như Tô đã mắc phải sai lầm trong suy nghĩ và hành động. Vũ Như Tô mượn uy quyền và tiền bạc của Lê Tương Dực để thực hiện giấc mộng Cửu Trùng Đài. Nhưng tiền bạc đó chính là công sức, của cải của nhân dân, ông chỉ nhìn thấy cái bề nổi khi xây dựng xong Cửu Trùng Đài, mà không nhận ra phần sâu của sự việc. Cửu Trùng Đài càng đến ngày hoàn thiện thì mâu thuẫn giữa ông với nhân dân càng lớn dần, họ căm ghét Vũ Như Tô bởi ông đã hạ lệnh giết chết những người bỏ trốn để duy trì kỉ luật trên công trường. Đó là hành động hết sức tàn nhẫn, đặt công trình lên trên tính mạng của thợ thuyền. Vũ Như Tô đã biến thành một kẻ đáng sợ, người dân không còn thấy hình ảnh của Vũ Như Tô gần gũi với nhân dân đâu nữa. Vì xây Cửu Trùng Đài mà cuộc sống của nhân dân ngày càng cực khổ. Vũ Như Tô là một thiên tài nhưng không phải là một hiền tài. Ông không thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân.
Vũ Như Tô bị đặt vào mâu thuẫn không thể hóa giải, điều hòa: một bên là khát vọng nghệ thuật, một bên là đời sống của nhân dân. Bởi vậy, cuối cùng ông đã nhận lấy cái kết vô cùng bi thảm. Vũ Như Tô bị hiểu lầm và bị kết tội: Nhân dân coi bạo chúa và Vũ Như Tô là một là hai người gây ra tội ác: “Bạo chúa đã chết, còn thằng Vũ Như Tô đem phanh thây thành trăm mảnh”. Ông không chỉ bị nhân dân kết tội mà giấc mộng cuộc đời ông, ông đã dồn biết bao tài năng và tâm sức xây dựng Cửu Trùng Đài giờ cũng rơi vào tuyệt vọng, Cửu Trùng Đài bị phá hủy. Trước cảnh tượng Cửu Trùng Đài rực cháy, Vũ Như Tô rú lên kinh hòang, tất cả giấc mộng đẹp tan tành, sụp đổ, đó là tiếng rú kinh hoàng, sợ hãi. “Thông thế là hết, dẫn ta đến pháp trường” – Vũ Như Tô người sáng tạo cái đẹp cũng bị giết. Cái chết của Vũ Như Tô là một kết cục tất yếu vì Cửu Trùng Đài là một công trình đẹp, tuyệt mĩ nhưng nó lại là biểu hiện của cái xấu, cái ác, nên tất yếu nó sẽ bị hủy diệt. Qua đó Nguyễn Huy Tưởng cũng nêu lên mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật phải xuất phát từ cuộc sống và phục vụ con người mới có thể tồn tại nếu không nó tất yếu sẽ bị diệt vọng.
Ngoài nhân vật Vũ Như Tô, ta cũng không thể không nhắc đến Đam Thiền. Bà là một cung nữ xinh đẹp, tài năng nhưng bị bỏ rơi. Đam Thiền là người yêu cái đẹp, cái thái độ “biệt nhỡn liên tài”, chính bà là người đã khuyên Vũ Như Tô nên ở lại để xây dựng Cửu Trùng Đài điểm tô cho đất nước, cũng chính bà đã khuyên Như Tô trốn đi khi xảy ra biến loạn. Và bà tình nguyện ở lại để bảo vệ Cửu Trùng Đài bởi “tôi chết đi không thiệt hại cho đời”. Cũng như Vũ Như Tô, Đam Thiềm cũng rơi vào bi kịch vỡ mộng: hi sinh tất cả danh dự tính mạng để bảo vệ Cửu Trùng Đài nhưng cuối cung vẫn phải chết. Đau đớn hơn trước khi chết còn phải chứng kiến cảnh Cửu Trùng Đài bị đốt phá tan tành. Người bà hết lòng bảo vệ là Vũ Như Tô cũng bị đưa ra pháp trường.
Hồi năm của vở kịch Vũ Như Tô đã được Nguyễn Huy Tưởng sử dụng ngôn ngữ kịch điêu luyện, mang tính tổng hợp cao. Nhịp điệu lời thoại nhanh, gấp gáp, sử dụng những câu văn ngắn cho thấy tình thế cấp bách. Tính cách, tâm trạng nhân vật được bộ lộc rõ nét.
Với các lớp kịch linh hoạt, tự nhiên tác giả đã tái hiện thành công hồi kịch thứ năm. Qua hồi kịch này ông gửi gắm sự ảm thông với bi kịch của Vũ Như Tô, Đồng thời đặt ra vấn đề mối quan hệ hài hòa giữa nghệ thuật và con người. Không chỉ vậy xã hội cần trân trọng, nâng niu những tài năng nghệ thuật, để họ có thể phát huy tài năng của bản thân, xây dựng sự giàu đẹp cho đất nước.
Bài tham khảo 2
Vào năm 1516 dưới triều vua lợn Lê Tương Dực vốn nổi tiếng là ăn chơi, sa đọa đã sai Vũ Như Tô xây điện 100 nóc và xây công trình quy mô lớn là Cửu trùng đài. Đây là một sự kiện có thật được nhà viết kịch tài ba Nguyễn Huy Tưởng khai thác để dựng lên vở kịch “Vũ Như Tô” phản ánh hai mâu thuẫn cơ bản về xã hội và con người. Đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” thuộc hồi cuối tác phẩm thể hiện cao trào kịch tính được đẩy lên đến đỉnh điểm, cùng với đó là bi kịch của nhân vật Vũ Như Tô và nữ phụ Đan Thiềm_những người nghệ sĩ say mê cái đẹp mà quên mất mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, giữa lí tưởng nghệ thuật thuần túy với lợi ích của nhân dân.
Vũ Như Tô là một nhà kiến trúc sư tài giỏi bị Lê Tương Dực ép xây dựng Cửu trùng đài để làm nơi hưởng lạc vui chơi với cung nữ. Ông vốn là người nghệ sĩ chân chính lại gắn bó gần gũi với nhân dân nên đã từ chối, quyết không nhận lời và ngang nhiên mắng chửi tên hôn quân bạo ngược. Về sau khi được Đan Thiềm_người cung nữ say mê cái đẹp và biết quý trọng người tài thuyết phục là lợi dụng tiền bạc và quyền lực của vua để xây dựng một tòa lâu đài cho đất nước “Bền như sao trăng”, có thể “tranh tinh xảo với hóa công” và để cho “dân ta nghìn thu còn hãnh diện”. Kể từ đó ông thay đổi thái độ chấp nhận mệnh lệnh, dồn tất cả tài năng và trí tuệ sáng suốt để hoàn thành hoài bão, lí tưởng muốn điểm tô cho đất nước. Chính việc làm ấy của Vũ Như Tô đã vô tình đẩy dân đen vào cảnh lầm than cực khổ khi sưu thuế ngày càng tăng cao, triều đình bắt thêm thợ giỏi, thẳng tay hạ chém những kẻ bỏ trốn, biết bao nhiêu người chết vì tai nạn. Nhân dân căm phẫn nhà vua, oán giân Vũ Như Tô. Để rồi Trịnh Duy Sản kẻ cầm đầu phe phái đối lập với triều đình lôi kéo dân chúng đứng lên làm phản giết vua và bắt giết Vũ Như Tô cùng Đan Thiềm.
Mở đầu đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” là hình ảnh cung nữ Đan Thiềm hớt hơ hớt hải chạy, mặt cắt không còn hột máu vào báo tin tình thế nguy kịch, thúc giục, cầu xin, van nài Vũ Như Tô chạy trốn với những lời lẽ tha thiết, chân thành: “Ông nghe tôi! Ông trốn đi! Ông nghe tôi! Ông phải trốn đi mới được”, nàng chắp tay van lạy Vũ Như Tô hãy bỏ trốn gìn giữ tính mạng chờ cơ hội khác vì đại sự đã hỏng. Từng chi tiết hành động và lời nói của Đan Thiềm chứng tỏ cô là một người rất quý trọng người tài, hiểu biết lo trước lo sau cho tài năng đất nước. Cô khẳng định: “Ông trốn đi. Tài kia không nên để uổng. Ông mà có mệnh hệ nào thì nước ta không còn ai điểm tô nữa”, con người ấy sẵn sàng quỳ dưới chân giặc cầu xin tha mạng cho ông Vũ, sẵn sàng xin chết thay ông nhưng Vũ Như Tô nhất quyết sống chết cùng đài cửu trùng mà không chịu rời đi để rồi gây nên tấn bi kịch cho cuộc đời ông.
Vũ Như Tô coi Cửu trùng đài quý hơn sinh mạng của bản thân, nó là cả phần xác lẫn phần hồn của ông và Đan Thiềm. Chính vì vậy mà ông mù quáng, u mê không thoát ra khỏi ảo vọng của mình được. Quân làm phản càng ngày kéo đến càng gần nhưng con người ấy vẫn ngoan cố vẫn không hiểu vì lí do gì họ lại muốn bắt mình, vẫn cố đấu lí với đời, với số phận: “Có lí gì để họ giết tôi?”, đứng trước quân khởi loạn vẫn tự trấn an mình và mọi người “Đời ta chưa tận, mệnh ta chưa cùng. Ta sẽ xây một tòa đài để tạ lòng tri kỉ”. Bị bọn chúng bắt ông vẫn nuôi hi vọng có thể phân trần với chủ tướng về tấm lòng nguyện vọng của bản thân mong sao để người đời hiểu cho nguyện ước ông đang thực hiện là vì vẻ đẹp ngàn năm của đất nước. Ông vẫn say sưa giấc mộng của riêng mình về Đài Cửu Trùng: “Vài năm nữa, Đài Cửu Trùng hoàn thành, cao cả, huy hoàng, giữa cõi trần lao lực, có một cảnh Bồng Lai…” Vũ Như Tô không thể tỉnh táo để nhận diện tình thế nguy kịch của hiện tại. Ông vẫn nghĩ mình bị hiểu nhầm, vẫn không tin rằng mình bị nhân dân oán hận, bị mọi người căm ghét, ông không tin dân chúng muốn phá Cửu Trùng Đài bởi đó là công trình, là tòa lâu đài điểm tô cho đất nước. Đứng ở khía cạnh người hùng thì đúng ông là con người dám làm dám chịu, có khí phách hiên ngang nhưng dựa trên hoàn cảnh thực tại thì đó là bảo thủ, cố chấp.
Vũ Như Tô xây Cửu Trùng Đài là biểu hiện cho tài năng của người nghệ sĩ, hiện thân cho sự khao khát và say mê sáng tạo cái đẹp đó là đúng đắn, là đáng trân trọng nhưng thực tế của đất nước dân cùng khốn khổ cái đẹp ấy lại trở nên thật phù phiếm, xa xỉ bởi đã thấm đẫm máu, nước mắt và được xây trên thây xác của nhân dân. Dù là ước muốn cao đẹp của Vũ Như Tô nhưng ông đã vô tình gây ra tội ác, trở thành kẻ thù của dân chúng và thợ thuyền mà không hề hay biết. Đến khi kinh thành bị phát hỏa, quân lính cho hay đó là lệnh của An Hòa Hầu, tận mắt chứng kiến cảnh Đài Cửu Trùng bốc cháy như giàn thiêu ông chỉ biết gào lên trong tuyệt vọng: “Đốt thực rồi! Đốt thực rồi! Ôi đảng ác! Ôi muôn phần căm giận! Trời ơi! Phú cho ta cái tài làm gì? Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu Trùng Đài!”. Vũ Như Tô bị rơi từ đỉnh cao mộng tưởng xuống hố sâu của tuyệt vọng. Nỗi đau và sự mất mát đã hòa vào nhau làm một dội lên tiếng kêu của đau thương, tang tóc. Những câu cảm thán thốt ra từ đỉnh điểm cảm xúc đau đớn vô cùng. Thật đáng tiếc với những câu hỏi lớn của Vũ Như Tô đến khi chết ông vẫn không hiểu tại vì sao lại ra nông nỗi: “Ta tội gì? Ta không có tội! Ôi mộng lớn! Ôi Đan Thiềm! Ôi Cửu trùng đài! Tấn bi kịch ấy là cái giá mà ông phải trả vì không nhận thức rõ vấn đề muôn thuở và thực tại.
Vũ Như Tô đã không hiểu được mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật được sáng tạo và xây dựng lên cuối cùng cũng phải vì phục vụ cho đời sống nhân dân. Đó mới là nghệ thuật vị nghệ thuật. Còn nghệ thuật không thể chỉ để thỏa mãn tài năng, lí tưởng của người nghệ sĩ mà quên mất rằng cái đẹp phải gắn với cái thiện, đẹp thiện không thể tách rời được nhau. Đứng trên lập trường người nghệ sĩ Cửu trùng đài là cái đẹp tuyệt mĩ, đứng trên lập trường của nhân dân nó là một bông hoa ác thấm đẫm máu. Cái giá mà Vũ Như Tô phải trả là ông chỉ nghĩ mình là nghệ sĩ chân chính mà quên mất rằng mình cũng là một công dân của đất nước.
Như vậy qua đoạn trích “Vĩnh biệt cửu trùng đài” nhà văn đã tái hiện lại bi kịch của Vũ Như Tô và Đan Thiềm gặp phải phản ánh sâu sắc hai mâu thuẫn của thời đại. Mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn của tập đoàn phong kiến Lê Tương Dực ăn chơi, hưởng lạc với hoàn cảnh bị bần cùng hóa của nhân dân. Mâu thuẫn thứ hai trong bản thân con người Vũ Như Tô và Đan Thiềm. Đó là mâu thuẫn giữa người công dân và người nghệ sĩ và phản ánh mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Hai mâu thuẫn này tác động lẫn nhau. Đan Thiềm thuyết phục Vũ Như Tô xây dựng Cửu trùng đài càng làm cho mâu thuẫn xã hội tăng cao, người nghệ sĩ càng hăng hái sáng tạo cái đẹp nghệ thuật bao nhiêu thì càng mâu thuẫn với lợi ích công dân bấy nhiêu. Thật đáng tiếc cho một người tài năng lại bị đặt nhầm chỗ, không đúng thời thế để rồi con người ấy, tài năng ấy bị hủy diệt bởi thực tại cuộc sống. Qua đó ta cũng nhận thức được bài học cái đẹp nghệ thuật chỉ thực sự có nhu cầu và có ý nghĩa khi đời sống vật chất được đáp ứng đầy đủ, lợi ích của nhân dân phải được đặt lên hàng đầu. Quan điểm đó đến ngày nay vẫn không hề lỗi thời mà nó luôn đúng trong mọi hoàn cảnh. Đảng và nhà nước ta luôn vận dụng nó vào để duy trì và phát triển đất nước.
Đoạn trích đã giải quyết được mâu thuẫn xã hội nhưng mâu thuẫn cá nhân với hai tư cách nghệ sĩ và công dân chưa được giải quyết điểm biểu hiện trong lời nói cuối cùng của Vũ Như Tô “Ta tội gì. Không ta chỉ có một hoài bão là tô điểm đất nước, đem hết tài năng ra xây cho nòi giống một tòa đài hoa lệ có thể thách thức với công trình trước sau, tranh tinh xảo với hóa công” và lời đề tựa vở kịch của tác giả: “Chẳng biết Vũ Như Tô phải hay những kẻ giết Vũ Như Tô phải, ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm”. Nguyễn Huy Tưởng trân trọng tài năng, say mê cái đẹp, cảm thông cho Vũ Như Tô nhưng ông cũng không đồng tình với nhân vật và những người nghệ sĩ chỉ biết quan tâm đến cái đẹp mà không vì quyền lợi của nhân dân.