Tác giả tác phẩm Đây mùa thu tới (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Đây mùa thu tới Ngữ văn lớp 11 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Đây mùa thu tới - Ngữ văn 11
I. Tác giả Xuân Diệu
- Quê quán: Can Lộc, Hà Tĩnh.
- Gia đình: Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho.
- Là con người say mê rèn luyện, lao động và sáng tác. Đó là một quyết tâm khắc khổ, là lẽ sống là niềm đam mê trong cuộc đời.
- Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ Mới.
- Thơ Xuân Diệu dồi dào những rung động tươi mới, tràn trề tình yêu và niềm khát khao giao cảm với đời.
II. Đọc tác phẩm Đây mùa thu tới
Rặng liễu dìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng:
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;
Những luồng run rẩy rung rinh lá....
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Mây vẫn từng không, chim bay đi.
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì.
III. Tìm hiểu tác phẩm Đây mùa thu tới
1. Thể loại
- Văn bản thuộc thể loại: thơ bảy chữ.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
- Đây mùa thu tới được in trong tập Thơ thơ (1933 – 1938), tập thơ đầu tay của tác giả.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: Biểu cảm.
4. Bố cục bài thơ Đây mùa thu tới
- Phần 1: Khổ thơ thứ nhất: Cảm nhận của nhà thơ khi mùa thu tới.
- Phần 2: Khổ thơ thứ hai: Khu vườn mùa thu.
- Phần 3: Khổ thơ thứ ba: Cảnh vật mùa thu.
- Phần 4: Khổ thơ cuối: Không gian thu mênh mông, rộng lớn.
5. Giá trị nội dung
- Bài thơ là một bức tranh thu với những biến thái tinh vi nhất, những rung cảm sâu xa của lòng người trong thời khắc chuyển mùa.
6. Giá trị nghệ thuật
- Bút pháp tả cảnh ngụ tình.
- Nghệ thuật nhân hóa.
- Cảm nhận tinh tế bằng các giác quan, cách tân trong việc tổ chức lời thơ, xây dựng hình ảnh, lựa chọn ngôn từ và kế thừa truyền thống thơ phương Đông kết hợp nhuần nhị với sự sáng tạo theo kiểu thơ phương Tây.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Đây mùa thu tới
1. Ba khổ thơ đầu
a. Khổ 1
- Bức tranh thiên nhiên trong đoạn thơ hiện lên qua những hình ảnh đó là:
+ Rặng liễu đìu hiu, nhân cách hóa dáng liễu như dáng một nàng thiếu nữ đứng chịu tang → hình ảnh thơ đẹp, buồn.
+ Áo mơ phai dệt lá vàng → sắc màu thanh nhẹ, tươi sáng
- Nhịp thơ 4/3, điệp khúc “mùa thu tới”, đại từ chỉ định “đây”, nghệ thuật vắt dòng “ tới”- “ với” → tiếng reo vui ngỡ ngàng, tiếc nuối của thi nhân.
Tóm lại : Xuân Diệu đã sáng tạo nên một hình ảnh đẹp và buồn về liễu. Cây liễu buổi đầu thu được miêu tả qua một dáng hình lặng lẽ, đau thương, một tâm tình cô đơn, sầu khổ. Cả một trời thu mênh mang 'đìu hiu đứng chịu tang' cùng liễu. Cảnh thu đẹp nhưng đượm buồn qua con mắt của thi nhân.
b. Khổ 2
- Cụm từ “hơn một loài hoa’ được dùng để chỉ sự tàn phai của hoa lá. Cách nói này giúp chúng ta cảm nhận được ít nhiều những bước chảy trôi của thời gian, của thiên nhiên đất trời.
- Hoa: Rụng cành → cách diễn đạt” hơn một rất mới → gợi sự úa tàn, rơi rụng.
- Lá: Sắc đỏ rũa màu xanh → động từ “rũa” thật gợi cảm → gợi sự mài mòn, sự lấn át.
+ Run rẩy, rung rinh → láy phụ âm “r” → gợi cảm giác se lạnh.
- Cành: Đôi nhánh, khô gấy, xương mỏng manh → nghệ thuật tạo hình, hình ảnh nhân hóa → gợi sự hao gầy, mong manh, trơ trọi.
*Như vậy, Xuân Diệu luôn cảm nhận thế giới trong bước đi của thời gian. Không có gì là bền lâu. Tất cả đều biến dịch, trôi chảy.
c. Khổ 3
- Sự khác biệt của không gian thơ ở khổ 2 với khổ 3 được thể hiện như sau:
Khổ 2 |
Khổ 3 |
+ Sự chuyển biến của thiên nhiên khi mùa thu tới. + Dần thay đổi theo thời tiết và khí hậu của mùa thu. |
+ Tô đậm thêm cảnh sắc khi mùa thu tới. + Hình ảnh với sự mờ ảo của sương mù, lúc ẩn lúc hiện, sự rét mướt đã được cảm nhận rõ hơn qua từng cơn gió, qua hình ảnh vắng vẻ của con người trên những chuyến đò. |
Cảnh thu vắng lặng, gợi nỗi cô đơn trong lòng người
- Dấu câu tạo ấn tượng thị giác với độc giả, qua đó giúp người đọc cảm nhận được những tâm tư, tình cảm của tác giả.
* Tóm lại: 3 khổ thơ đầu bức tranh thu đẹp nhưng đượm buồn.
2. Khổ thơ cuối
- Mây vẩn, chim bay đi, khí trời u uất hận chia ly , tín hiệu của thơ cổ, đất trời nhuốm màu ảm đạm, thê lương, ly biệt.
- Ít nhiều thiếu nữ buồn, không nói, tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi tâm trạng mơ hồ, suy nghĩ, đợi chờ.
Như vậy, cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi buồn, nỗi cô đơn của con người khát khao giao cảm với đời.
V. Các đề văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Đây mùa thu tới
Bài tham khảo 1
Xuân Diệu, một ông hoàng của thơ tình yêu, không chỉ là người mang đến những tình cảm đẹp đẽ, lãng mạn trong thơ ca, mà còn đem đến những góc nhìn mới, sáng tạo về cuộc sống và tình yêu. Ông được biết đến là thi sĩ của mùa thu, nơi mà tâm hồn của ông bộc lộ qua những cảm xúc lãng mạn và xao xuyến. Bài thơ 'Đây mùa thu tới' là một minh chứng tiêu biểu cho sự tài năng và sáng tạo của Xuân Diệu. Bài thơ này được Xuân Diệu sáng tác và xuất bản vào năm 1938, trong tập 'Thơ Thơ'. Trong đó, ông mô tả mùa thu không chỉ là hình ảnh của lá rụng và gió hắt hiu, mà còn là biểu tượng của sự đau khổ, bi ai. Tác phẩm rơi vào đề tài của một tâm hồn nhạy cảm, nhận biết được những biến đổi nhỏ nhất của thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc những cảm xúc mùa thu mang lại. Hình ảnh mùa thu trong bài thơ không chỉ là những chiếc lá rơi, mà còn là những cành liễu, tượng trưng cho sự tang thương và bi ai. Mùa thu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ là sự kết thúc của mùa hè, mà còn là một kỳ nghỉ trầm lặng của tâm hồn, là lúc để nhìn lại và cảm nhận sâu hơn về cuộc sống.
'Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng'.
Không gian mở ra với vẻ 'đìu hiu,' buồn bã, và trống vắng. Rặng liễu mênh mông như một dải tang thương, lá liễu trải dài như mái tóc dài của cô phụ buồn bã, lửng lơ. Xuân Diệu sử dụng hình ảnh của sương thu, ướt đẫm trên những nhánh liễu như một phương tiện để truyền đạt tâm trạng sâu sắc. Các cành liễu mô phỏng như những cô gái già trải qua gian khổ, mặc dù diện mạo dịu dàng nhưng đôi mắt chứa đựng nỗi buồn đẫm lệ. Phương tiện láy âm được tận dụng linh hoạt, tạo ra những vần thơ độc đáo với âm điệu đầy phức tạp: 'đìu hiu - chịu,' 'tang - ngàn - hàng,' 'buồn - buông - xuống.' Điều này thêm vào những đặc điểm độc đáo của thơ của Xuân Diệu trong những năm đầu thế kỉ 20. Trong khi nhìn ngắm rặng liễu, bất chợt tác giả phát hiện màu thu đã đến, và sử dụng cách ngắt nhịp 4/3 cùng với điệp ngữ 'mùa thu tới,' đã thể hiện bước chuyển động của mùa thu và sự mong đợi đã dậy lên từ tận sâu trong trái tim thi sĩ.
'Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng'.
Cách ghép vần tài tình như một đường cong tình cảm: 'tới - với,' và từ 'dệt' tinh tế như một bàn tay nghệ nhân đan xen giữa mô tả và trải nghiệm. Mùa thu không chỉ là sự đổi màu của lá cây, mà còn là một bức tranh được 'dệt' tỉ mỉ, mang đến vẻ đẹp không phải là sự tình cờ, mà là kết quả của sự sáng tạo. 'Với áo mơ phai dệt lá vàng' không chỉ là một dòng thơ, mà là một cảm nhận sâu sắc về tâm hồn thu, với sắc màu lá cây được tô điểm bởi bức tranh thanh nhẹ, tươi sáng của mùa thu thân thương. Mặc dù, mùa thu đẹp đẽ ấy lại mở đầu bằng một nỗi buồn nặng trên tâm trí. Khi mùa thu về, cảnh đẹp thay đổi, màu sắc trở nên rực rỡ. Mùa thu đã đến và rồi qua đi, thời gian trôi nhanh chóng không thể tin nổi. Cảnh đẹp thay đổi từng khoảnh khắc, hoa rơi như những bông tuyết đỏ lấm chấm những đám lá xanh, cây cỏ bắt đầu rụng lá một cách nhẹ nhàng như đang 'run rẩy,' khẽ 'rung rinh' dưới làn gió thu dịu dàng, se lạnh, hòa mình vào không khí thu quyến rũ.
'Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh'.
Xuân Diệu, một ông hoàng của thơ tình yêu, không chỉ là người mang đến những tình cảm đẹp đẽ, lãng mạn trong thơ ca, mà còn đem đến những góc nhìn mới, sáng tạo về cuộc sống và tình yêu. Ông được biết đến là thi sĩ của mùa thu, nơi mà tâm hồn của ông bộc lộ qua những cảm xúc lãng mạn và xao xuyến. Bài thơ 'Đây mùa thu tới' là một minh chứng tiêu biểu cho sự tài năng và sáng tạo của Xuân Diệu. Bài thơ này được Xuân Diệu sáng tác và xuất bản vào năm 1938. Trong đó, ông mô tả mùa thu không chỉ là hình ảnh của lá rụng và gió hắt hiu, mà còn là biểu tượng của sự đau khổ, bi ai. Tác phẩm rơi vào đề tài của một tâm hồn nhạy cảm, nhận biết được những biến đổi nhỏ nhất của thiên nhiên và cảm nhận sâu sắc những cảm xúc mùa thu mang lại.
Hình ảnh mùa thu trong bài thơ không chỉ là những chiếc lá rơi, mà còn là những cành liễu, tượng trưng cho sự tang thương và bi ai. Mùa thu trong thơ của Xuân Diệu không chỉ là sự kết thúc của mùa hè, mà còn là một kỳ nghỉ trầm lặng của tâm hồn, là lúc để nhìn lại và cảm nhận sâu hơn về cuộc sống.
'Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… '
'Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Hai từ 'đã nghe' và 'đã vắng' như là những tiếng chuông, mở ra một không gian bao la và trống trải của những buổi chiều thu, nơi không khí se se lạnh tận cùng. Sự chuyển đổi giữa xúc giác và thính giác tạo nên một cảm giác đa chiều, khiến cho độc giả không chỉ nhận biết qua giác quan mà còn đắm chìm trong trạng thái tinh tế của tâm hồn. Thi nhân cảm nhận sự lạnh lẽo của rét, cảm nhận gió thoảng qua, và cảm nhận sự xa vắng không chỉ qua giác quan mà còn qua linh hồn, như chính tác giả đang đứng giữa làn gió thu, se lạnh, và từng giọt lạnh leo qua da.
Khổ thơ cuối cùng là một tuyệt tác về hình ảnh thiên nhiên, từ cảnh đẹp của bầu trời, đám mây, cánh chim cho đến vẻ đẹp của một người phụ nữ. Mây trời và cánh chim không chỉ là hình ảnh thiên nhiên mà còn là biểu tượng của sự nhẹ nhàng, mong manh và tự do. Tuy nhiên, trong vẻ đẹp của thiên nhiên và người đẹp, thoáng chốc lại hiện lên nét buồn mơ hồ và mênh mông, như một bức tranh của tình yêu xa cách, những 'bèo dạt mây trôi' của một tình cảm chia lìa.
'Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li'…
'Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì'
Trong thơ của Xuân Diệu, không thể phủ nhận sự xuất hiện đặc biệt và quan trọng của hình bóng giai nhân. Bài thơ 'Đây mùa thu tới' cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Tại đây, tác giả không chỉ mô tả mùa thu qua những cảm xúc và hình ảnh của thiên nhiên mà còn chú ý đặc biệt đến hình bóng của giai nhân, tạo nên một góc nhìn mới và sáng tạo về mùa thu. Trong bài thơ, giai nhân được miêu tả như một hình ảnh tương tư và mộng tưởng. Sự xuất hiện của giai nhân không chỉ làm phong phú thêm không khí mùa thu mà còn làm nổi bật cảm xúc tương tư, huyền bí trong tâm hồn người thơ. Giai nhân trong thơ Xuân Diệu thường được xem như biểu tượng của vẻ đẹp, tình yêu và sự quý phái. Cách cảm nhận mùa thu của tác giả là sự kết hợp hài hòa giữa những nét đẹp tự nhiên và vẻ duyên dáng của giai nhân. Bằng cách này, ông đã làm cho bức tranh mùa thu trở nên phong cách, sâu sắc hơn, và tạo ra một không khí đặc biệt mà độc giả không thể quên.
Bài tham khảo 2
Mùa thu trong bài thơ 'Đây mùa thu tới' của Xuân Diệu không phải là bức tranh thu truyền thống, nó không mô tả vẻ đẹp yên bình, hòa mình trong sắc vàng của lá cây. Ngược lại, tác giả quan sát mùa thu thông qua những biến đổi độc đáo của thiên nhiên đất trời trong khoảnh khắc giao mùa giữa hạ và thu. Nhà thơ không chỉ là một người quan sát mà còn là người cảm thu được tất cả những sự thay đổi tinh tế và phong phú của mùa thu. Điểm đặc biệt của bài thơ là cách nhạy bén và tinh tế khi nhìn nhận hình ảnh rặng liễu, một hiện tượng mới và lạ mắt trong thơ Việt Nam. Nhà thơ biến đổi hình ảnh rặng liễu thành một tượng trưng sâu sắc, liên tưởng đến hình ảnh thiếu nữ trẻ trung, đẹp đẽ và chịu tang, tóc buông xõa và tràn lệ. Sự kết hợp giữa hiện thực và tưởng tượng tạo nên một mùa thu mới, độc đáo, và đậm chất nghệ thuật. Bằng cách này, Xuân Diệu đã làm nổi bật cái đẹp và hồn của mùa thu, không chỉ là một thời điểm trong năm mà còn là một trạng thái tinh thần, một cảm xúc sâu sắc và phong phú. Mùa thu trong thơ ông không chỉ là sự chuyển đổi của thời tiết mà còn là sự thay đổi của tâm trạng và linh hồn.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”
Xuân Diệu, nhà thơ tài năng và lãng mạn, thường xuyên sử dụng hình ảnh của giai nhân để thể hiện vẻ đẹp và tình cảm trong thơ. Bài thơ 'Đây mùa thu tới' không phải là ngoại lệ, và tác giả đã vô cùng tinh tế khi chọn giai nhân như một điểm nhấn quan trọng trong bức tranh mùa thu. Hình bóng của giai nhân không chỉ làm cho mùa thu trở nên quyến rũ và huyền bí hơn, mà còn mang đến nét thanh xuân, tươi mới, và nhẹ nhàng. Xuân Diệu sử dụng hình ảnh này như một thước đo để diễn đạt vẻ đẹp của thiên nhiên. Bằng cách này, ông kết nối giữa vẻ đẹp tự nhiên và vẻ đẹp của con người, tạo ra một sự tương phản đặc sắc.
Tuy nhiên, cảnh đẹp mùa thu của Xuân Diệu không chỉ là sự hòa quyện của thiên nhiên và giai nhân mà còn mang chút buồn bã, u sầu. Điều này thể hiện sự tinh tế của tác giả trong việc kết hợp giữa vẻ đẹp và nỗi buồn, làm cho bức tranh mùa thu trở nên phức tạp và sâu sắc hơn. Tất cả tạo nên một không khí ngọt ngào, nhưng cũng buồn bã và thâm trầm, làm cho độc giả cảm nhận được đầy đủ mặt trái và mặt phải của mùa thu trong thơ của Xuân Diệu.
“Đây mùa thu tới - mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
Những từ ngữ của Xuân Diệu đưa người đọc đến một hình ảnh mùa thu đặc biệt, không chỉ là sự chuyển đổi của thời tiết mà còn là sự tinh tế và độc đáo trong mắt của nhà thơ. Điệp ngữ 'đây mùa thu tới - mùa thu tới' không chỉ đơn thuần là miêu tả thời gian mà còn là một cung bậc cảm xúc sôi nổi, như tiếng reo thích thú trước vẻ đẹp của mùa thu. Hình ảnh 'áo mơ phai dệt lá vàng' là một biểu tượng tuyệt vời cho sự độc đáo của mùa thu. Màu sắc không chỉ là vàng truyền thống mà còn chứa đựng ánh xanh, tạo nên một tông màu mới mẻ, phong cách và sáng tạo. Mơ phai như một lớp màng mỏng che phủ, tô điểm cho bức tranh thu một vẻ đẹp tinh tế và quý phái. Sự soi sáng của 'áo mơ' không chỉ làm nổi bật cái đẹp của mùa thu mà còn làm tăng thêm sự linh hoạt và thanh nhã. Xuân Diệu không chỉ miêu tả mùa thu mà còn tạo ra một không gian tâm lý, nơi mà tình cảm và sự phát hiện đều tự nhiên như hơi thở của mùa thu đang lưu luyến.
“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá…
Đôi nhánh khô gầy sương mỏng manh”
Nhà thơ Xuân Diệu không chỉ giới hạn mình trong việc diễn đạt về mùa thu mà còn đi sâu vào quan sát chi tiết cảnh vật trong vườn thu, tạo nên một bức tranh tinh tế và đầy sắc màu về mùa thu. Hình ảnh hoa rơi nhẹ xuống mặt đất mang theo vẻ đẹp thoáng đã qua, biểu tượng cho sự tàn úa và rơi rụng của thời gian. Lá cây đã tàn úa, màu xanh của sự tươi mới dần chuyển sang màu đỏ, là biểu tượng của sự chết tróc và sự thay đổi của thời gian. Sự mô tả về sự khô kiệt và mỏng manh của cành cây như là hình ảnh của sự mất mát, sự kết thúc, tăng cường thêm vào cảm giác lạnh lẽo và tĩnh lặng của mùa thu.
Sự chú ý đặc biệt đến âm thanh của cành cây 'run rẩy', 'rung rinh' tạo ra một không khí lạnh lẽo và huyền bí. Sự lựa chọn cẩn thận của từ ngữ như 'run' và 'rung' giúp thể hiện chính xác hình ảnh của cây cỏ đang chịu tác động của gió mùa thu. Biện pháp láy phụ âm đầu như 'r' thêm vào sự ấn tượng của sự rung động, làm nổi bật hơn sự yếu đuối và giữa bối cảnh giàu cảm xúc của mùa thu. Cảnh trăng cao, non xa, và đò sâu được mô tả một cách mở rộng, mở rộng tầm nhìn của độc giả ra khỏi vườn thu, tạo nên một không gian bao la và biểu tượng cho sự vĩnh cửu và sự chìm đắm của tâm hồn trong không gian mùa thu.
“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…
Non xa khởi sự nhạt sương mờ…
Đã nghe rét mướt luồn trong gió..
Đã vắng người sang những chuyến đò..”
Nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật nhân hóa để tạo ra một hình ảnh mùa thu phong cách và lôi cuốn. Khi nhà thơ gọi trăng là 'nàng trăng,' ông không chỉ nhìn nhận nó như một hiện thân của thiên nhiên mà còn truyền tải một linh hồn, một tính cách con người. 'Nàng trăng' giống như một phụ nữ đang tựa vào cửa sổ, dành thời gian để suy nghĩ và ngâm ngấm vào vẻ đẹp và sự hiện hữu của mình. Hình ảnh này không chỉ là một tượng trưng cho vẻ đẹp của trăng mà còn làm tăng thêm sự quyến rũ và sâu sắc của mùa thu.
Việc miêu tả trăng cao, non xa và đò sâu làm cho không gian mùa thu trở nên bao la và huyền bí hơn. 'Cao non xa' đưa độc giả vào một không gian vô tận, trong đó mùa thu trải rộng và đưa chúng ta vào một trạng thái tinh thần chìm đắm và cô đơn. Đồng thời, 'đò sâu' mang lại cảm giác của sự mê hoặc và khả năng khám phá, mở ra một thế giới nơi tâm hồn có thể lang thang và tìm kiếm.
“Non xa khởi sự nhạt sương mờ…”
Cụm từ 'non xa' như một bức tranh sinh động mô tả dãy núi vươn lên trong khói sương, nhấp nhô và trùng điệp, tạo nên một cảnh đẹp hùng vĩ, tráng lệ, và đồng thời mang đến cho độc giả một cảm giác thơ mộng. Từ 'khởi sự' như một lời mở đầu cho câu chuyện của cảnh đẹp, làm nổi bật vẻ hùng vĩ của phong cảnh thiên nhiên. Tiếp theo, cụm từ 'rét mướt' không chỉ là một mô tả chân thực về thời tiết mùa thu đông mà còn tạo nên một hình ảnh sống động về cảm giác lạnh lẽo, tinh khôi của không khí mùa thu khi nó chạm vào những sợi gió. Sự giao thoa của ba mùa, hạ, thu, và đông, được tác giả mô tả qua từ ngữ tinh tế, tạo nên một bức tranh phong phú và sâu sắc về mùa thu.
“Đã vắng người sang những chuyến đò..”
Những chuyến đò vắng khách là biểu tượng cho sự cô đơn và chia li trong mùa thu của Xuân Diệu. Hình ảnh những chuyến đò không có người đi qua làm tăng thêm sự hưng phấn và bình yên của không gian thu. Tuy nhiên, việc nhắc đến việc 'người đi chôn trong bóng trăng đâu?' tạo ra một cảm giác lạc lõng và buồn bã. Có thể hiểu rằng người đã rời đi để lại một khoảnh khắc cô đơn và đau buồn, đặc biệt là khi kết hợp với hình ảnh của trăng, một biểu tượng của tình cảm và mơ mộng.
Những người chia tay không chỉ là con người mà còn là cảnh vật, mùa thu và mùa chia tay. Cảnh vật trở nên trống vắng khi mọi người và mọi thứ đều chuẩn bị chia tay và chìm đắm trong sự hoang vắng. Điều này thể hiện sự nhạy cảm và sâu sắc của Xuân Diệu trong việc diễn đạt cảm xúc và tâm trạng của mình về mùa thu.
“Mây vẩn từng không chim bay đi
Khí trời u uất hận chia li
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Màu sắc của sự chia ly lan tỏa từ cảnh vật xung quanh, như một điệu nhấn tinh tế của tâm trạng. Loài chim di cư, nhạy bén cảm nhận sự lạnh giá của mùa đông đang đến, nên chúng vội vã hành trình về phương Nam, tránh xa khỏi cái lạnh khắc nghiệt tại phương Bắc. Hành trình của chúng, không chỉ là một hiện tượng tự nhiên mà còn trở thành biểu tượng cho sự chia li và di cư, thể hiện sự biến đổi của thế giới tự nhiên. Bầu trời, thông qua mô tả về đám mây vần vũ và sự chao đảo, nhuốm màu u uất và xám xịt, trở nên vẩn đục như tâm trạng của những người chia xa. Cảnh trời u ám, không rõ ràng như một hình ảnh của sự chia tay và nỗi nhớ, đồng thời cũng làm nổi bật sự buồn bã và lạc lõng trong không gian tâm lý.
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”
Hình ảnh những thiếu nữ tươi trẻ tựa cửa với dáng đứng yểu điệu và ánh mắt xa xăm tạo nên một bức tranh thu sâu lắng và mơ hồ. Xuân Diệu tận dụng hình ảnh của những cô gái để tạo nên một không khí lãng mạn, nhưng đồng thời ánh mắt xa xăm của họ cũng làm tăng thêm lớp bí ẩn và buồn bã. Sự lựa chọn chi tiết tinh tế như vậy khiến bức tranh trở nên gợi cảm và phức tạp, khơi gợi nhiều cảm xúc đa dạng. 'Bước chân nhẹ nghiêng vương hoàng hôn' là một hình ảnh tinh tế và chấn động, tạo nên sự mềm mại và thoáng đãng. Hình ảnh hoàng hôn là thời điểm chuyển giao giữa ban ngày và đêm, mang theo một chút buồn bã, hòa quyện với dáng đi của những thiếu nữ, tạo nên một tuyệt tác nghệ thuật với sự kết hợp hài hòa giữa tự nhiên và con người.
Bức tranh của Xuân Diệu không chỉ đẹp về hình ảnh mà còn lồng ghép một lớp cảm xúc phong phú, từ vui tươi của bước chân nhẹ đến sự buồn bã của ánh mắt xa xăm. Mỗi chi tiết được chọn lọc cẩn thận, hài hòa một cách tự nhiên, tạo nên một bức tranh thu sâu sắc và đầy nghệ thuật.
'Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng'.
'Say mê ngắm 'rặng liễu đìu hiu…', nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ 'mùa thu tới' đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.'
Nhà thơ Xuân Diệu chìm đắm trong sự say mê, ngắm nhìn cảnh đẹp của rặng liễu, và ý thức được sự đổi thay của mùa thu. Cảm giác của ông được truyền đạt qua việc sử dụng điệp ngữ 'mùa thu tới', như một lời chào đón, một niềm hạnh phúc và mong đợi. Cách ngắt nhịp 4/3 không chỉ tạo ra sự nhấn mạnh mà còn thể hiện sự tươi mới, sôi động của mùa thu đang bắt đầu. Điều này thể hiện tâm trạng phấn khích và mong đợi mà mùa thu mang lại cho nhà thơ.
'Đây mùa thu tới/mùa thu tới
Với áo mơ phai/dệt lá vàng'.
Cặp vần 'tới - với' và từ 'dệt' tạo nên một hình ảnh rất tinh tế và phong cách trong bài thơ. Sự lựa chọn cụm từ 'dệt lá vàng' không chỉ diễn đạt về sự thay đổi của mùa thu mà còn như một dấu hiệu của thời gian, như là một nghệ nhân tài năng đang tạo ra một tác phẩm nghệ thuật. Mô tả về sự biến đổi của mùa thu được thể hiện một cách sâu sắc và tinh tế. Hình ảnh lá cây 'mơ phai' như một bức tranh tĩnh lặng, đậm chất nghệ thuật, khiến cho người đọc có thể hình dung được mùa thu đang khắc nên một câu chuyện đẹp mắt. Câu thơ 'Với áo mơ phai dệt lá vàng' không chỉ là một mô tả hình ảnh mà còn chứa đựng một cảm xúc sâu sắc về thời gian trôi qua và sự biến đổi của mọi thứ. Sự lựa chọn từ ngôn ngữ cẩn thận của tác giả đã làm cho bức tranh mùa thu trở nên sống động và ý nghĩa.
'Sắc đâu nhuộm ố quan hà
Cỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương'
Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang 'run rẩy', khẽ 'rung rinh' trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ, như là một điệu nhảy mềm mại của tự nhiên, như là một bản giao hưởng êm dịu của mùa thu.
'Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh'.
Các từ láy: 'run rẩy', 'rung rinh”, 'mỏng manh' là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm, “r' (rụng, rũa, run rẩy, rung rinh) và phụ âm 'm' (một, màu, mỏng manh) với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân Diệu. Khổ thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là 'nàng trăng tự ngẩn ngơ' trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi 'Trăng bao nhiêu tuổi trăng già' mà lại nói là 'nàng trăng'. Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng có núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, 'khởi sự' nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:
'Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… '
Hai tiếng 'đã nghe', 'đã vắng' gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh. Sự lặng lẽ, huyền bí của tiếng đã nghe và sự hiện diện nhưng cũng như là mất mát của 'đã vắng' được diễn đạt một cách tinh tế. Tiếng thu bên tai không chỉ là âm thanh mà còn là một bức tranh tĩnh lặng với những khoảnh khắc đong đầy cảm xúc. Tiếp theo là câu thơ thứ 4, ngôn ngữ tĩnh lặng, thơ mộng khi tả 'hương cỏ lau'. Hương thơm nhẹ nhàng của cỏ lau tưởng chừng như đang đưa đẩy độc giả vào không gian thu bình yên, giữa bản dạng trời rộng lớn và thảnh thơi. Bức tranh thu bắt đầu hiện lên từ hương cỏ lau mềm mại, tạo nên một tác phẩm hình ảnh thuần khiết, gần gũi với tự nhiên.
'Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”
Cấu trúc câu thơ tinh tế và sự diễn đạt độc đáo đã làm cho bài thơ trở nên mới mẻ và ấn tượng. Chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác giúp tạo nên một trải nghiệm đa chiều, làm phong phú thêm sự hiểu biết về sự đa dạng và phong phú của mùa thu. Chữ 'luồn' đã thêm sự cụ thể và hình ảnh cho cảm nhận về cái rét. Rét mướt không chỉ là cảm giác lạnh lẽo mà còn là một trạng thái linh hồn, nơi mà thi nhân có thể đắm chìm trong sự trải nghiệm của mùa thu. Việc mô tả rét mướt 'luồn trong gió thu hiu hắt' với hình ảnh của gió thu làm tăng thêm sự sống động và sinh động cho bức tranh, tạo nên một khung cảnh thuận buồm cho tâm hồn của người đọc.
Chữ 'động' trong việc mô tả cánh chim bay và áng mây chiều trôi tạo nên một bức tranh sống động và yên bình. Cảnh đẹp của thiên nhiên, mây trời và cánh chim tạo ra một không gian bình yên, thể hiện sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Sự đẹp của thiên nhiên, đám mây, và cánh chim kết hợp với nỗi buồn mơ hồ làm cho bức tranh trở nên phức tạp, đầy ý nghĩa và sâu sắc. Thi sĩ đã thành công trong việc kết hợp cảm giác của thiên nhiên và xúc cảm của con người, tạo nên một tác phẩm thơ vừa sôi động, vừa tĩnh lặng, làm cho người đọc cảm nhận được sự hòa mình vào vẻ đẹp của mùa thu và tâm hồn của nhân vật trong bài thơ.