Tác giả tác phẩm Trao duyên (Cánh Diều 2024) Ngữ văn 11 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Trao duyên Ngữ văn lớp 11 sách Cánh diều đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 80 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Trao duyên - Ngữ văn 11

I. Tác giả Nguyễn Du

Trao duyên - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

- Nguyễn Du (1765 -1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh tại kinh thành Thăng Long (Hà Nội). Cha là Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, làm quan đến chức Tham tụng (Tể tướng) dưới triều Lê; mẹ là bà Trần Thị Tần quê ở Kinh Bắc –Bắc Ninh. Nguyễn Du ra đời trong một gia đình đại quý tộc, có thế lực vào bậc nhất đương thời.

- Thời đại: Cuộc đời Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX. Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật là chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Yếu tố thời đại đã ảnh hưởng sâu sắc tới ngòi bút của Nguyễn Du khi viết về hiện thực đời sống.

- Cuộc đời: cuộc đời từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã tạo cho Nguyễn Du vốn sống phong phú và niềm thông cảm sâu sắc với những đau khổ của nhân dân. Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.

- Sự nghiệp văn học: sáng tác của Nguyễn Du gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm:

+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.

+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.

- Đặc điểm sáng tác: các tác phẩm đều thể hiện tư tưởng nhân đạo: đề cao giá trị nhân văn con người. Các tác phẩm đó đều thể hiện sự cảm thông sấu sắc của Nguyễn Du đối với cuộc sống của con người, nhất là những người nhỏ bé, bất hạnh, ... đó là kết quả của quá trình quan sát, suy ngẫm về cuộc đời, về con người của tác giả. Đồng thời lên án, tố cáo những thế lực đen tối chà đạp con người.

II. Đọc tác phẩm Trao duyên

“... Cậy em em có chịu lời,

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.

Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.

Ngày xuân em hãy còn dài,

Xót tình máu mủ thay lời nước non.

Chị dù thịt nát xương mòn,

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.

Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương huyền ngày xưa.

Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy so tơ phím này,

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai

Dạ đài cách mặt khuất lời,

Rưới xin giọt nước cho người thác oan.

Bây giờ trâm gãy gương tan,

Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân !

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi !

Phận sao phận bạc như với !

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng.

Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang !

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !”

III. Tìm hiểu tác phẩm Trao duyên

1. Thể loại

- Đoạn trích Trao duyện thuộc thể loại: thơ lục bát.

2. Xuất xứ

- Đoạn trích nằm trong tập thơ Truyện Kiều, từ câu 723 đến câu 756.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: miêu tả, biểu cảm.

4. Ý nghĩa nhan đề

- Nhan đề đoạn trích do người biên soạn SGK là Trao duyên nhưng trớ trêu thay đây không phải là cảnh trao duyên thơ mộng của những đôi nam nữ mà ta thường gặp trong ca dao xưa. Có đọc mới hiểu được, Trao duyên, ở đây là gửi duyên, gửi tình của mình cho người khác, nhờ người khác chắp nối mối tình dang dở của mình. Thúy Kiều trước phút dấn thân vào quãng đời lưu lạc, bán mình cứu cha, nghĩ mình không giữ trọn lời đính ước với người yêu, đã nhờ cậy em là Thúy Vân thay mình gắn bó với chàng Kim. Đoạn thơ không chỉ có chuyện trao duyên mà còn chất chứa bao tâm tư trĩu nặng của Thúy Kiều.

5. Tóm tắt Trao duyên

Thúy Kiều nhờ cậy em nối duyên với Kim Trọng vì muốn làm tròn chữ hiếu và chữ tình. Nàng trao kỉ vật và dặn dò em. Nàng dự cảm về tương lai không lành, rằng mình sẽ phải chết oan, mong em sẽ an ủi linh hồn chị khi chết. Tự nhận mình là người phụ bạc chàng Kim, xin chàng tha thứ trong tâm trạng đầy đau khổ. Trao duyên nhưng không trao được tình, đau khổ vô tận, cao đẹp vô ngần.

6. Bố cục đoạn trích

- Phần 1: Từ đầu đến “Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”: Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân.

- Phần 2: Tiếp theo đến “Rảy xin chén nước cho người thác oan”: Kiều trao tín vật đính ước cho em cùng với lời dặn dò.

- Phần 3. Còn lại: Nỗi đau đớn, dằn vặt của Thúy Kiều.

7. Giá trị nội dung

- Đoạn trích là là lời của Thúy Kiều nói với Thúy Vân khi muốn nhờ em gái trả nghĩa cho Kim Trọng. Qua đây, Nguyễn Du đã khắc họa được bi kịch tình yêu, cùng với thân phận bất hạnh cũng như nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

8. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật khắc họa nội tâm nhân vật.

- Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ…

- Sử dụng thành công ngôn ngữ, thể thơ của dân tộc.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Trao duyên

Trao duyên - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 11 Cánh diều

1. Thúy Kiều tìm cách thuyết phục, trao duyên cho Thúy Vân

a. Hai câu đầu

- Cậy → nhờ (cậy- thanh trắc→ âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói; nhờ- thanh bằng): hàm ý hi vọng tha thiết của một lời trăng trối, có ý tựa nương, gửi gắm, vật nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Nàng dùng từ này vì việc nàng cậy nhờ vừa đột ngột vừa rất quan trọng với cả hai người.

- Chịu → nhận (tự nguyện): nài ép, bắt buộc, không nhận không được.

- Lạy: mang thái độ kính cẩn với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.

- Thưa: mang thái độ kính cẩn, trang trọng

=> Hoàn cảnh đặc biệt khác thường: Kiều là người phiền lụy, mang ơn chính người em gái ruột của mình

b. Mười câu tiếp

- Tương tư: tình yêu nam nữ; “gánh tương tư”: người xưa xem tình yêu là một gánh nghĩa vụ, gánh nặng, chữ tình đi liền với chữ nghĩa, giữa những người yêu nhau có mối duyên tiền định, sẵn có từ kiếp trước.

- Câu 3: sự dang dở, tình yêu tan vỡ.

+ Mối tơ thừa – mối tình duyên Kim – Kiều: cách nói nhún mình, trân trọng với Vân vì nàng hiểu sự thiệt thòi của em.

+ Mặc em (phó mặc, ủy thác): vừa có ý mong muốn vừa có ý ép buộc Thúy Vân phải nhận lời.

=> Câu 3- 4: Thúy Kiều mong muốn, ép buộc Thúy Vân thay mình nối duyên cùng Kim Trọng.

- Câu 5 - 8: kể lại vắn tắt câu chuyện tình yêu của Kiều- Kim.

- Câu 9 -12: lời thuyết phục Thúy Vân của Kiều

+ Ngày xuân (phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ) ý chỉ tuổi trẻ.

=> Lí do thứ nhất: Thúy Vân còn trẻ.

+ Tình máu mủ: tình cảm chị em ruột thịt.

+ Lời nước non: lời nguyện ước trong tình yêu.

=> Lí do thứ hai: Viện đến tình cảm chị em ruột thịt, Kiều mong Vân thay mình trả nghĩa với chàng Kim.

+ Thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”: chỉ cái chết.

=> Lí do thứ ba: Được vậy thì Kiều có chết cũng được mãn nguyện, thơm lây vì em đã giúp mình sống trọn nghĩa với chàng Kim.

=> Phẩm chất của Thúy Kiều:

+ Sắc sảo, khôn ngoan.

+ Luôn nghĩ đến người khác hơn cả bản thân mình → đức hi sinh, lòng vị tha.

2. Thúy Kiều trao kỉ vật cho em và dặn dò em

a. Câu 13-14

- Thúy Kiều trao kỉ vật tình yêu cho Thúy Vân: chiếc vành, bức tờ mây: Với người ngoài cuộc: ko có giá trị vật chất đáng kể còn với Thúy Kiều: quý giá, gợi tình cảm sâu nặng, lời thề ước thiêng liêng của Kim- Kiều.

- Của chung: của Kim, Kiều. (nay còn là của Vân à tiếc nuối, đau đớn. à Kiều chỉ có thể trao duyên (nghĩa) nhưng tình ko thể trao → ko thanh thản → nghĩ đến cái chết.)

- Của tin: phím đàn, mảnh hương nguyền đều là những vật gắn bó, gợi tình yêu Kim- Kiều.

b. Câu 15 – 24

- Cảnh sum họp của Kim Trọng – Thúy Vân >< Linh hồn cô độc, bất hạnh của Thúy Kiều.

→ tình yêu thủy chung, mãnh liệt.

→ ý thức ngày càng rõ hơn về bi kịch của Thúy Kiều.

- Ngày xưa → thời gian quá khứ xa xôi→ thời gian tâm lí, chia cuộc đời Kiều làm hai mảng đối lập:

Quá khứ >< Hiện tại

hạnh phúc, tươi chia li, tan vỡ đột ngột.

đẹp, rực rỡ. thảm khốc.

→ Quá khứ đã trở thành ảo ảnh vô cùng xa xôi.

- Hàng loạt những từ nói về cái chết: hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, thác oan → nỗi đau đớn tuyệt vọng và dự cảm tương lai bất hạnh của Kiều.

“Mất người … thác oan” → Kiều vẽ ra viễn cảnh tương lai đối lập giữa một bên là cảnh sum vầy của Kim Trọng – Thúy Vân với một bên là linh hồn cô độc, bất hạnh của nàng. Vậy là dù có chết nàng vẫn ko quên được mối tình với chàng Kim. Nói cách khác đó là một tình cảm bền chặt, thủy chung, mãnh liệt. Nàng ý thức ngày càng rõ hơn về bi kịch của mình nên đã chuyển từ đối thoại sang độc thoại nội tâm. Trong khi dự cảm về viễn cảnh tương lai mình phải chết oan, chết hận, hồn tả tơi bay vật vờ trong gió, ko siêu thoát được, nhưng vẫn mang nặng lời thề, Kiều như càng dần quên sự có mặt của em để độc thoại. Gv liên hệ đến câu chuyện về anh Trương Chi (giải thích câu “Dạ đài … thác oan”). Trương Chi còn tìm được sự đồng cảm của Mị Nương sau khi chàng chết nhưng với Kiều bi kịch tình yêu ko được giải quyết vì đó mới chỉ là ảo giác của mai sau.

3. Tâm trạng đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều (8 câu cuối)

- Ý thức về hiện tại: Bây giờ

+ Trâm gãy bình tan.

+ Phận bạc như vôi.

+ Nước chảy, hoa trôi.

→ Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ, dở dang, bạc bẽo, trôi nổi của tình duyên và số phận con người.

- Hàng loạt các câu cảm thán:

→ tình yêu mãnh liệt >< sự chia biệt vĩnh viễn.

→ nỗi đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng.

- “Người mệnh bạc” (phần trên) → người phụ bạc.

- “Lạy” (lạy tình quân) → tạ lỗi.

→ vĩnh biệt.

- Hai lần gọi tên Kim Trọng→ tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.

→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác → đức hi sinh cao quý. 8 câu cuối, Kiều chuyển hẳn sang độc thoại nội tâm mang tính chất đối thoại với người vắng mặt (Kim Trọng). Hàng loạt các câu cảm thán gợi tình yêu mãnh liệt nhưng sự chia biệt là vĩnh viễn. Bi kịch càng lên cao, Kiều càng đau đớn, tuyệt vọng đến mê sảng, quên cả ý tứ để chuyển sang nói với người vắng mặt là chàng Kim.

Thúy Kiều từ chỗ nhận mình là người mệnh bạc, giờ lại tự nhận là người phụ bạc chàng Kim. Vì vậy, đang độc thoại, nàng quay sang đối thoại tưởng tượng với Kim Trọng, gọi tên chàng trong đớn đau đến mê sảng. Cái lạy ở đây khác với cái lạy ở phần đầu. Kiều nhận tất cả lỗi về mình nhưng nào nàng có lỗi gì … Những dòng tiếp đoạn trích này, chúng ta còn thấy nàng đau đớn, tuyệt vọng đến ngất đi: “Cạn lời hồn ngất máu say/ Một hơi lặng ngắt, đôi tay giá đồng”…

V. Các đề văn mẫu

Trao Duyên - Nguyễn Du

Đề bài: Phân tích bài Trao duyên 

Bài tham khảo 1

“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Trong đó, đoạn trích nổi tiếng “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, đặc biệt là đối với số phận của khách hồng nhan, số phận của Thúy Kiều. Ngoài ra, “Trao duyên” còn là tâm sự, là tiếng khóc đau thương được bật ra từ một hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.

“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt đằng sau một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp hết. Kiều đứng trước cảnh gia biến phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với chàng Kim. Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ta thấy cách sử dụng ngôn ngữ, ở đây là sử dụng động từ đã đạt tới những thành công nhất định. Từ “cậy” với thanh trắc âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, nó trái hẳn với “nhờ”. Cậy mang hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, van nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Từ “chịu” thể hiện nài ép, bắt buộc, không nhận không được. Hai động từ “lạy”, “thưa” trong câu thứ hai đã thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn. Thúy Kiều trong vế ở trên, là chị của Thúy Vân nhưng trong cuộc “trao duyên” hoàn toàn nhận về sự thua thiệt. Chữ hiếu đè nặng lên vai và bổn phận “làm con trước phải đền ơn sinh thành” đã trở thành niềm lo lắng khôn nguôi của nàng Kiều lúc này. Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở nay phải cam chịu cảnh dở dang, đứt quãng “đứt gánh tương tư” bởi tai họa ập đến gia đình “sóng gió bất kì”. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời giằng xé, từng ai oán thương tâm. Bên tình bên hiếu đang chờ đợi sự lựa chọn của nàng. Không thể từ bỏ cha già, em thơ, Kiều chỉ còn cách bán mình cứu cả gia đình qua cơn sóng gió. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông mong ở mối quan hệ thâm tình ruột thịt để trả nghĩa cho chàng Kim. Niềm vui hẹn ước, thề nguyền xưa kia giờ chỉ còn biết nghĩ tình máu mủ thay thế. Để rồi đằng sau lời lẽ đầy lí trí của một người con hiếu thảo kia là dự cảm không lành ở tương lai:

“Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, nàng chẳng khác nào từ bỏ đi cuộc sống của mình. Nàng nghĩ đến cái chết của chính mình, tự nhận thức về bi kịch tình yêu đang hiện hữu. Và càng đau đớn hơn khi các kỉ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, vẫn ấm áp hơi người, Kiều trao kỉ vật và dặn dò ở nơi em:

“ Chiếc vành với bức tờ mây,
Duyên này thì giữ vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, trong Thúy Kiều dường như có gì đó không nỡ, có gì đó lưu luyến. Đã nhờ Thúy Vân thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng những kỷ vật xưa kia vẫn là “của chung”. Nàng không từ bỏ được chúng cũng như không từ bỏ được tình yêu sâu kín trong tận đáy lòng. Có cái gì đó uất nghẹn âm vang trong câu thơ bởi sự giằng xé, phân đôi xót xa giữa cái riêng với cái chung, giữa hạnh phúc với bất hạnh, giữa mất và còn, giữa tương lai và hiện tại. Kiều nhận về mình tất cả những xót xa, những đau đớn của một đời người bạc mệnh bởi đây cũng là số phận mà nàng phải vương mang: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mạch tự sự của thơ tiếp tục diễn ra để thể hiện một bi kịch tình yêu:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”

Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc. Những “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi ra cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Hơn thế nữa, nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào, tức tưởi như tiếng khóc não nùng cố nén lại để không bật thành lời. Kiều đang tưởng tượng đau đớn đến tột bực bởi trong lòng còn mang nặng tình cảm với chàng Kim. Cuối cùng, sau những giờ phút gửi gắm tình duyên là lúc Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho “người yêu cũ”:

“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!
Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy thế nào? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lạy tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”… Còn gì đau đớn hơn, còn gì xót xa hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn của tình duyên đã khiến nàng gần như rơi vào cơn mê sảng. Nàng nhận hết tất cả thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại cái tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều lúc này như buông xuôi tất cả, nàng mặc cho sự xô đẩy vô tình của số phận, sự dày vò của con tạo để bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đau đớn, nghẹn ngào:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!'

Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đầy đau đớn tuyệt vọng. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã ban tặng cho nàng.

Về nghệ thuật, đoạn trích đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật, ở đây chính là Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu, được trách nhiệm, được sự hi sinh, được kiếp số bạc mệnh của nàng. Vừa là một người con hiếu thảo, một người yêu thủy chung, Kiều đã thực sự lấy đi biết bao nước mắt, biết bao sự đồng cảm, xót xa. Bên cạnh đó, đoạn trích đã sử dụng thành công ngôn ngữ kết hợp giữa tự sự và trữ tình và đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo các thành ngữ dân gian, sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ca ngợi đời đời.

Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa nên bức tranh cảm động về số phận nàng Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng có thêm cơ hội để nhìn nhận tài năng của Nguyễn Du, để nhìn nhận giá trị của “Truyện Kiều”, để hiểu vì sao người đời gọi đây là một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung.

Bài tham khảo 2

Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng? Thúy Kiều hết sức đau khổ. Cuối cùng nàng quyết định nhờ em thay mình lấy Kim Trọng. Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” rất cảm động. Có lẽ đây là cảnh tượng đau lòng chưa từng thấy trong nền văn học nhân loại.

Dựa vào cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đã dựng lại chi tiết trao duyên thật sống động. “Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân” thì thấy chị mình đang thổn thức giữa đêm khuya. Vân ghé đến ân cần hỏi han. Thúy Kiều thật là khó nói, nhưng “để lòng thì phụ tấm lòng với ai”. Thương cha, nàng bán mình, thương người tình, nàng đành cậy em:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa,
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc, em’’.

Trong đây từ diễn tả khái niệm nhờ, Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”, tuyệt vời chính xác. Từ “cậy” hàm chứa niềm tin mà người được nhờ không thể thoái thác được. Lại thêm một cử chỉ thiêng liêng là “lạy”. Thuở đời chị lại lạy sống em bao giờ! Mà chỉ để trao duyên. Mối tình với chàng Kim sâu nặng biết chừng nào, thiêng liêng biết chừng nào! Trong nước mắt, giữa đêm khuya, Thúy Kiều đã kể lể sự tình cho cô em nghe:

“Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Thúy Kiều đã kể nhanh những sự kiện mà Thúy Vân cũng đã chứng kiến. Chuyện gặp chàng Kim trong buổi chiều thanh minh Chuyện thề nguyền hẹn ước với Kim Trọng. Chuyện sóng gió của gia đình. Nhưng có một chi tiết mà một người giản đơn như Thúy Vân không bao giờ biết được: “Hữu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”. Qua lời Thúy Kiều, Nguyễn Du đay nghiến cả một xã hội, Hiếu - tình là hai giá trị tinh thần không thể đặt lên bàn cân được. Một xã hội bắt con người phải lựa chọn những giá trị không thể lựa chọn được thì xã hội đấy là một xã hội tàn bạo. Thúy Kiều đã cay đắng lựa chọn chữ “hiếu”. Mà chỉ có ba điều tồn tại: “Đức tin, hi vọng và tình yêu, tình yêu vĩ đại hơn cả”. Nghe một bài trong Kinh Thánh như vậy, chúng ta càng thấm thía với nỗi đau của nàng Kiều. Cho nên hi sinh chữ tình, nàng Kiều coi như không tồn tại trên cõi đời này nữa. Mỗi lời của nàng không phải là nước mắt mà là máu đang rỉ ra trong lòng.

“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương mòn
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Lời lẽ thiêng liêng của nàng là vì lo cho Kim Trọng, mong sao cho chàng Kim có hạnh phúc trong tan vỡ. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao. Biết là em thuận lòng, nàng trao cho em những kỉ vật giữa nàng và chàng Kim:

“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung'.

Tình cảm dẫu sao vẫn còn trừu tượng, chứ kỉ vật của tình yêu thì cứ hiển nhiên hiện ra đó, cho nên Thúy Kiều trao “chiếc vành với bức tờ mây” cho em thì nàng cũng đau đớn đến tột độ. Mỗi lời của nàng nặng như chì. Nàng trao duyên, trao kỉ vật cho em mà nàng uất giận cuộc đời. Cái xã hội bắt con người phải chung cả cái không thể chung được thì có đáng nguyền rủa không Đây chính là lời tố cáo vọng đến thấu trời của Nguyễn Du đối với xã hội đã chà đạp lên hạnh phúc của con người. Thúy Kiều trao duyên là coi như mình đã khuất. Nàng dặn em giữ gìn ki vật và còn dặn em hãy thương lấy linh hồn vật vờ đau khổ của chị trên cõi đời đen bạc này:

“Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Lời lẽ huyền hồ bóng ma nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ. Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi!
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Mỗi lời của nàng là một lời vận vào. Trước nỗi đau xót này, nàng chỉ trách minh là “phận bạc”, là “hoa trôi”, những hình ảnh đó làm động lòng thương lên hết thảy chúng ta. Đối với Kim Trọng, nàng còn mặc cảm tội lỗi là chính nàng đã “phụ chàng”. Chính tâm lí mặc cảm tội lỗi cao thượng đó khiến nàng chết ngất trong tiếng kêu thương thấu trời:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang
Thôi thôi! Thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đoạn “Trao duyên” trong “Truyện Kiều” là một khúc “đoạn trường” trong thiên “Đoạn trường tân thanh”. Với con mắt tinh đời, Nguyễn Du đã phát hiện thấy trong truyện của Thanh Tâm Tài Nhân một tình tiết rất cảm động và bằng nghệ thuật tuyệt vời, ông đã dựng lại đoạn “Trao duyên” hết sức sâu sắc và độc đáo. Tác giả đã đối lập hai tính cách của hai chị em một cách tài tình: con người của đời thường và con người của phi thường. Trong sự kiện “sóng gió bất kì” này, Thúy Vân vô tư, hồn nhiên (cũng đừng vội chê trách Thúy Vân.

Nhân vật này còn là một kho bí mật trong công trình nghệ thuật kiệt tác của Nguyễn Du mà chúng ta chưa kịp bàn ở đây), còn Thúy Kiều thì đau đớn. Nguyễn Du đã dụng công miêu tả tâm lí, sự vận động nội tâm nhân vật, cũng có thể nói Nguyễn Du đã đạt đến phép biện chứng của tâm hồn.

Chỉ qua đoạn “Trao duyên”, chúng ta cũng cảm nhận được Thúy Kiều là một cô gái giàu tình cảm, giàu đức hi sinh, có ý thức về tình yêu và cuộc sống. Một nhân cách như vậy mà vừa chớm bước vào đời như một bông hoa mới nở đã bị sóng gió dập vùi tan tác. Nói như Mộng Liên Đường chủ nhân: khúc đoạn trường này như có máu rỏ trên đầu ngọn bút của Nguyễn Du, như có nước mắt của thi nhân thấm qua trang giấy. Hơn hai trăm năm rồi, những giọt nước mắt nhân tình ấy vẫn chưa ráo.

Video bài giảng Văn 11 Trao duyên - Cánh diều

1 80 lượt xem