Tác giả tác phẩm Bình Ngô đại cáo (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Bình Ngô đại cáo Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Bình Ngô đại cáo - Ngữ văn 10
I. Tác giả
1. Tiểu sử
- Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu Ức Trai.
- Quê gốc: Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương; sau dời về Nhị Khê (Thường Tín - Hà Tây).
- Thân sinh: Nguyễn Ứng Long - một nhà Nho nghèo, học giỏi, đỗ tiến sĩ đời Trần.
- Mẹ: Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Hãn.
- Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, văn hóa, văn học.
- Nợ nước, thù nhà => theo Lê Lợi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- 1427 - 1428: khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng => viết Bình Ngô đại cáo.
- Sau đó tham gia xây dựng đất nước, rồi bị oan.
- 1439 ra ở ẩn tại Côn Sơn.
- 1440 quay lại chốn quan trường.
- 1442: oan Lệ Chi Viên => tru di tam tộc, đến hơn 20 năm sau mới được Lê Thánh Tông minh oan.
à Tổng kết:
+ Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, một danh nhân văn hóa thế giới.
+ Một con người phải chịu những oan khuất thảm khốc nhất trong lịch sử chế dộ phong kiến Việt Nam.
2. Sự nghiệp văn học
a. Tác phẩm chính
- Những tác phẩm chính viết bằng chữ Hán: Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô Đại Cáo, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục,...
- Những tác phẩm bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập hiện còn 254 bài chia làm bốn môn loại: Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn. Phần Vô đề chia thành nhiều mục: Thủ vĩ ngâm (1 bài), Ngôn chí (21 bài), Mạn thuật (14 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Tự thuật (11 bài), Tức sự (4 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài) v.v...
b. Giá trị văn chương
* Văn chính luận:
- Nội dung: Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước thương dân.
- Nghệ thuật: Đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực, kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.
* Thơ trữ tình:
- Lý tưởng của người anh hùng: nhân nghĩa hòa hợp với yêu nước thương dân, lúc nào cũng tha thiết mãnh miệt.
- Phẩm chất ý chí của người anh hùng mạnh mẽ kiên trung, vì dân vì nước chiến đấu chống ngoại xâm và cường quyền bạo ngược.
=> Kết luận:
+ Nội dung: hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn là yêu nước và nhân đạo.
+ Nghệ thuật: có đóng góp lớn ở cả hai phương diện thể loại và ngôn ngữ.
II. Đọc tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Thay trời hành hóa, hoàng thượng truyền rằng.
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt thời nào cũng có.
Cho nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,
Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán hận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa,
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh.
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế,
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bắt hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán ;
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.
Nặng nề những nổi phu phen,
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thần dân chịu được?
Ta đây:
Núi Lam sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Trọn hay:
Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo.
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.
Sĩ khí đã hăng
Quân thanh càng mạnh.
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.
Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu
Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.
Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng.
Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt,
Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm công.
Tưởng chúng biết lẽ ăn năn nên đã thay lòng đổi dạ
Ngờ đâu vẫn đương mưu tính lại còn chuốc tội gây oan.
Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác,
Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.
Bởi thế:
Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng
Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy
Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong
Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.
Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá
Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau
Lại thêm quân bốn mặt vây thành
Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc
Sĩ tốt kén người hùng hổ
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn.
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận tan tác chim muông.
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,
Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.
Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường
Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước
Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,
Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ
Bị ta chặn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật!
Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.
Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.
Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,
Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh
Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc,
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Chẳng những mưu kế kì diệu
Cũng là chưa thấy xưa nay
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt hối rồi lại minh
Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu
Muôn thuở nền thái bình vững chắc
Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;
Than ôi!
Một cỗ nhung y chiến thắng,
Nên công oanh liệt ngàn năm
Bốn phương biển cả thanh bình,
Ban chiếu duy tân khắp chốn.
Xa gần bá cáo,
Ai nấy đều hay.
III. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo
1. Thể loại
- Thể loại Cáo
- Khái niệm: là thể văn nghị luận có từ thời cổ ở Trung Quốc, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương, một sự nghiệp, tuyên ngôn một sự kiện để mọi người cùng biết.
- Đặc trưng:
+ Viết bằng văn xuôi hay văn vần, phần nhiều là văn biền ngẫu (loại văn có ngôn ngữ đối ngẫu, các vế đối thanh B-T, từ loại, có vần điệu, sử dụng điển cố, ngôn ngữ khoa trương).
+ Lời lẽ đanh thép, lí luận sắc bén.
+ Kết cấu chặt chẽ, mạch lạc.
2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
- Mùa đông năm 1427, sau khi diệt viện, chém Liễu Thăng, đuổi Mộc Thạnh, tổng binh Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan phải xin hàng, cuộc kháng chiến chống giặc Minh hoàn toàn thắng lợi.
- Năm 1428: Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đình Hậu Lê, sai Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho toàn dân được biết chiến thắng vĩ đại của quân dân trong 10 năm chiến đấu gian khổ, từ nay, nước Việt đã giành lại được nền độc lập, non sông trở lại thái bình.
3. Tóm tắt tác phẩm Bình Ngô đại cáo
Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không chỉ tuyên bố độc lập, mà còn khẳng định sự bình đẳng của Đại Việt với Trung Quốc trong lịch sử từ trước đến nay và thể hiện nhiều ý tưởng về sự công bằng, vai trò của người dân trong lịch sử và cách giành chiến thắng của quân khởi nghĩa Lam Sơn.
4. Ý nghĩa nhan đề
- “Đại cáo bình Ngô” là dịch 4 chữ Hán: Bình Ngô Đại Cáo, tác phẩm Do Nguyễn Trãi viết lấy danh nghĩa của Vua Lê Thái Tổ.
- Nhan đề có ý nghĩa sau: “Đại Cáo Bình Ngô” là Bản cáo lớn gửi đến quốc dân đồng bào về chiến thắng oanh liệt của quân dân ta đánh tan được quân Ngô.
5. Bố cục tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Phần 1 (từ đầu đến “chứng cớ còn ghi”): Luận đề chính nghĩa (Tiền đề lí luận)
- Phần 2 (tiếp đó đến “Ai bảo thần dân chịu được”): Bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu về tội ác của kẻ thù. (Soi chiếu lí luận vào thực tiễn)
- Phần 3 (tiếp đó đến “Cũng là chưa thấy xưa nay”): Bản hùng ca về cuộc khỏi nghĩa Lam Sơn
- Phần 4 (còn lại): Lời tuyên bố độc lập
6. Giá trị nội dung tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Đại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, qua đó vạch tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Bình Ngô đại cáo
- Lí luận chặt chẽ, hợp lí lời lẽ hùng hồn
- Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương
- Sử dụng các biện pháp nghệ thuật: liệt kể, phóng đại, so sánh, đối lập….
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Bình Ngô đại cáo
1. Tiền đề lý luận
* Tư tưởng nhân nghĩa
- “Nhân nghĩa” là phạm trù tư tưởng của Nho giáo chỉ mối quan hệ giữa người với người dựa trên cơ sở tình thương và đạo lí.
- “Nhân nghĩa” trong quan niệm của Nguyễn Trãi
+ Kế thừa tư tưởng Nho giáo: “yên dân” – làm cho cuộc sống nhân dân yên ổn, hạnh phúc
+ Cụ thể hóa với nội dung mới đó là trừ bạo – vì nhân dân diệt trừ bạo tàn, giặc xâm lược.
→ Với nét nghĩa tiến bộ, mới mẻ Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh đồng thời phân biệt rõ ràng ta chính nghĩa, địch phi nghĩa.
→ Tạo cơ sở vững chắc cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn – là cuộc khởi nghĩa nhân nghĩa, vì cuộc sống của nhân dân mà diệt trừ bạo tàn.
* Chân lý về độc lập dân tộc
- Nguyễn Trãi đã xác định tư cách độc lập của nước Đại Việt bằng một loạt các dẫn chứng thuyết phục: Nền văn hiến lâu đời, cương vực lãnh thổ riêng biệt, phong tục Bắc Nam phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, lịch sử lâu đời trải qua các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần, hào kiệt đời nào cũng có.
→ Bằng cách liệt kê tác giả đưa ra các chứng cứ hùng hồn, thuyết phục khẳng định dân tộc Đại Việt là quốc gia độc lập, đó là chân lý không thể chối cãi.
- Các từ ngữ “từ trước, đã lâu, vốn xưng, đã chia” đã khẳng định sự tồn tại hiển nhiên của Đại Việt.
- Thái độ của tác giả:
+ So sánh các triều đại của Đại Việt ngang hàng với các triều đại của Trung Hoa.
+ Gọi các vị vua Đại Việt là “đế”: Trước nay hoàng đế phương Bắc chỉ xem vua nước Việt là Vương.
→ Thể hiện ý thức về chủ quyền độc lập cao độ của tác giả.
- Sử dụng phép liệt kê, dẫn ra những kết cục của kẻ chống lại chân lý: Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã,...
→ Là lời cảnh cáo đanh thép, đồng thời cũng thể hiện niềm tự hào bởi những chiến công của nhân dân Đại Việt.
2. Soi chiếu lý luận vào thực tiễn.
* Tội ác của giặc Minh.
- Tội ác xâm lược: Từ “nhân, thừa cơ” cho thấy sự cơ hội, thủ đoạn của giặc Minh, chúng mượn chiêu bài “phù Trần diệt Hồ” để gây chiến tranh xâm lược nước ta.
→ Vạch trần luận điệp bịp bợm, cướp nước của giặc Minh.
- Tội ác với nhân dân:
+ Khủng bố, sát hại người dân vô tội: Nướng dân đen, vùi con đỏ
Bóc lột bằng thuế khóa, vơ vét tài nguyên, sản vật nước ta
Phá hoại môi trường, tiêu diệt sự sống
Bóc lột sức lao động, phá hoại sản xuất.
→ Sử dụng biện pháp liệt kê tố cáo những tội ác dã man của giặc.
→ Gợi hình ảnh đáng thương, tội nghiệp, khổ đau của nhân dân
→ Nỗi xót xa, đau đớn, thương cảm đối với nhân dân, sự căm phẫn đối với kẻ thù của tác giả.
* Lòng căm thù giặc của nhân dân.
- Hình ảnh phóng đại “trúc Nam Sơn không ghi hết tội, nước Đông Hải không rửa sạch mùi” lấy cái vô cùng của tự nhiên để nói về tội ác của giặc Minh.
- Câu hỏi tu từ “lẽ nào...chịu được”: Tội ác không thể dung thứ của giặc.
→ Thái độ căm phẫn, uất nghẹn không bao giờ tha thứ của nhân dân ta
⇒ Đoạn văn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh
3. Diễn biến cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
* Hình tượng người anh hùng Lê Lợi
- Nguồn gốc xuất thân: là người nông dân áo vải “chốn hoang dã nương mình”
- Lựa chọn căn cứ khởi nghĩa: “Núi Lam Sơn dấy nghĩa”
- Có lòng căm thù giặc sâu sắc, sục sôi: “Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống...”
- Có lý tưởng, hoài bão lớn lao, biết trọng dụng người tài: “Tấm lòng cứu nước...dành phía tả”.
- Có lòng quyết tâm để thực hiện lí tưởng lớn “Đau lòng nhức óc...nếm mật nằm gai...suy xét đã tinh”.
→ Hình tượng Lê lợi vừa là con người bình dị đời thường, vừa là người anh hùng khởi nghĩa. Hình tượng Lê Lợi cũng là linh hồn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi cho thấy tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa.
* Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
- Giai đoạn đầu cuộc khởi nghĩa:
+ Khó khăn về quân trang, lương thực: lương hết mấy tuần, quân không một đội
+ Tinh thần của quân và dân: Gắng chí, quyết tâm (Ta gắng chí khắc phục gian nan), đồng lòng, đoàn kết (sử dụng 2 điện tích dựng cần trúc, hòa nước sông)
→ Giai đoạn đầu đầy khó khăn, thử thách, nhờ sự lạc quan, đồng lòng, đoàn kết, biết dựa vào dân đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua mọi khó khăn.
- Giai đoạn phản công và giành thắng lợi
+ Những chiến thắng ban đầu: Trận Bạch Đằng, miền Trà Lân tạo thanh thanh thế cho nghĩa quân và trở thành nỗi khiếp đảm cho kẻ thù “sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay”.
+ Nghĩa quân liên tiếp giành nhiều thắng lợi to lớn, tiêu diệt giặc ở những thành mà chúng chiếm đóng “Trần Trí, Sơn Thọ...thoát thân” và tiêu diệt quân chi viện của giặc “Đinh Mùi...tự vẫn”.
→ Biện pháp liệt kê tái hiện không khí chiến trận máu lửa, sục sôi với những chiến thắng giòn giã liên tiếp của quân ta cũng như sự thất bại nhục nhã, ê chề của địch.
+ Sự thất bại nhục nhã, thảm thương của giặc Minh:
Nghệ thuật cường điệu, phóng đại cực tả sự thiệt hại, tổn thất to lớn của quân thù. Đó là những thất bại nhục nhã, ê chề “thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm, bêu đầu, bỏ mạng,..”.
Thất bại thảm hại, khốn đốn, cửi áo giáp xin hàng “Thượng thư Hoàng Phúc...xin cứu mạng”
Tướng giặc tham sống sợ chết xin hàng.
+ Khí thế vang dội và cách ứng xử của quân dân ta:
Cách nói cường điệu, phóng đại: “Gươm mài đá đá núi cũng mòn, voi uống nước nước sông phải cạn, đánh một trận....”, ca ngợi khí thế hào sảng, ngút trời của quân ta.
Thực thi chính sách nhân nghĩa “Thần vũ chẳng giết hại...nghỉ sức”. Đây là cách ứng xử vừa nhân đạo vừa khôn khéo của nghĩa quân Lam Sơn, nó vừa khiến ta thấy được tính chất chính nghĩa của nghĩa quân vừa là sự chuẩn bị cần thiết cho chính sách ngoại giao sau này.
→ Nghệ thuật đối lập đã thể hiện rõ những nét đối cực trong cuộc chiến giữa ta và địch, từ tính chất cuộc chiến cho đến khí thế, sức mạnh, những chiến công và cách ứng xử
→ Niềm tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc của tác giả.
4. Niềm tin, ý chí
- Giọng điệu trang trọng, hào sảng cho thấy niềm tin và những suy tư sâu lắng của tác giả
- Sử dụng những hình ảnh về tương lai đất nước như “xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, thái bình vững chắc”, các hình ảnh của vũ trụ “kiền khôn, nhật nguyệt, ngàn thu sạch làu”
→ Đất nước, vũ trụ đang vận động theo hướng tươi sáng, tốt đẹp hơn.
→ Đây không chỉ là lời tuyên bố kết thúc còn là niềm tin tưởng, lạc quan về sự nghiệp xây dựng đất nước.
V. Các bài văn mẫu
Đề bài: Phân tích bài Bình Ngô đại cáo
Bài tham khảo 1
Hiện tượng văn, sử, triết bất phân là đặc trưng của nền văn học trung đại không chỉ Việt Nam mà còn là xu hướng chung của thế giới. Thế nên, tìm hiểu những tác phẩm văn học trung đại ta nhìn thấy từng dấu ấn lịch sử hiện ra rõ nét. Trong nhiều tác phẩm sử vẫn tìm thấy phong cách của văn chương và ngược lại trong văn chương vẫn mang đậm lối kể của sử và cách nhìn cuộc đời của triết. Cũng giống như Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo đánh dấu một chặng đường lịch sử trọng đại của nước nhà. Tuy nhiên khi Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo không nằm ở giai đoạn cả nước chuẩn bị kháng chiến mà là khi vua Lê đã đánh đuổi được ngoại xâm, giành lấy độc lập cho Đại Việt. Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn thay lời Bình Định vương Lê Lợi tuyên cáo với toàn dân về chiến thắng vẻ vang trước quân Minh đồng thời cũng là khẳng định nền độc lập của dân tộc.
Bình Ngô đại cáo ra đời trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Cuối năm 1427 khi đất nước đã sạch bóng quân thù đồng thời cũng là lúc hàng loạt những chính sách đối nội, đối ngoại được thực hiện nhằm khiến cho nhân dân trong nước và triều đại phương Bắc phải thừa nhận tính chất chính thống của vương triều mới. Đây chính là lúc triều đại mới cần có tiếng nói hợp pháp nhằm bố cáo với toàn dân và xác lập chủ quyền. Suốt mấy mươi năm chịu ách nô lệ của nhà Minh cùng với quá khứ Bắc thuộc cứ mãi ám ảnh day dứt trong tâm trí người Việt, lại thêm nhân dân ta mất lòng tin với triều đại trước đó nên chẳng còn mối quan hệ gắn bó với nhà nước phong kiến. Lúc này đây, nhiệm vụ quan trọng của Nguyễn Trãi là phải chuyển tải được niềm tin đối với đất nước, triều đại mới, niềm tự hào với truyền thống dân tộc.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi không dừng lại ở nhiệm vụ của bản tuyên ngôn độc lập mà còn là lời đanh thép khẳng định nhân quyền, chủ quyền.
Cáo là thể văn nghị luận cổ, thường được vua chúa hoặc thủ lĩnh dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả của một sự nghiệp để mọi người cùng biết. Cáo phần nhiều được viết bằng văn biền ngẫu. Bình Ngô đại cáo được viết theo bố cục của một bài cáo: nêu luận đề chính nghĩa, kể tội ác của giặc, tổng kết quá trình chinh phạt, tuyên cáo hòa bình, thành lập triều đại mới. Đại cáo không chỉ có nghĩa là một bài cáo có tầm vóc lớn, mang giá trị lịch sử cao mà Nguyễn Trãi còn ngầm so sánh đầy tự hào với các bản cáo mẫu mực của Trung Quốc “Thang cáo”, Vũ cáo”.
Để hiểu rõ ý nghĩa nhan đề Bình Ngô đại cáo cần quan tâm đến hàm ý trong “bình Ngô”. “Ngô” ở đây thường được hiểu là chỉ chung có các triều đại phong kiến phương Bắc, Ngô còn gợi nỗi đau và sự căm phẫn của nhân dân ta về tội ác mà bọn Đông Ngô đã gây ra trong 1000 năm Bắc thuộc. Như vậy có thể tổng hợp lại “Bình Ngô đại cáo” là tuyên cáo rộng rãi về việc dẹp yên quân xâm lược, công bố sự ra đời của triều đại mới, kỷ nguyên mới độc lập dân tộc.
Bình Ngô đại cáo trước hết là bản tuyên ngôn về nhân quyền, dân quyền của đất nước. Ngay ở phần đầu tiên của bản cáo, Nguyễn Trãi đã đặc biệt chú ý đến việc xây dựng nên luận đề chính nghĩa. Luận đề này dựa trên mối quan hệ thống nhất giữa ba yếu tố: nhân nghĩa – dân – nước. Tư tưởng “nhân nghĩa” bắt nguồn từ Nho giáo đề cao mối quan hệ giữa người với người dựa trên lòng yêu thương con người và đạo lý làm người. Nguyễn Trãi kế thừa những tư tưởng tích cực của Nho giáo nhưng không đề cao vai trò người quân tử mà hướng đến nhân dân. Với ông, việc nhân nghĩa là việc làm đem đến lợi ích cho nhân dân, bảo vệ nhân dân. Góc nhìn tích cực này so với thời đại phong kiến thật đáng trân trọng. Điều này cũng mở ra những chuyển biến tích cực trong quan niệm về vai trò của nhân dân đối với đất nước.
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dânQuân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Nghĩa quân trừ bạo tàn trước hết vì sự yên bình của nhân dân. Dựa vào dân là dựa vào chính nghĩa, có chính nghĩa chắc chắn sẽ tất thắng. Đây chính là tư tưởng chủ đạo trong giai đoạn kháng chiến chống quân Minh. Nguyễn Trãi đã rất khéo khi đem tư tưởng “yên dân” trong đoạn mở đầu làm sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm để tăng sức thuyết phục cho bài cáo.
Đâu chỉ có những nhận thức sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của nhân dân, Nguyễn Trãi còn đưa ra những quan niệm về tổ quốc dựa trên sự hợp nhất giữa các yếu tố: văn hiến, địa lý, phong tục, chính trị, nhân tài, truyền thống lịch sử.
“Như nước Đại Việt ta từ trước,Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,Núi sông bờ cõi đã chia,Phong tục Bắc Nam cũng khác;Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,Song hào kiệt thời nào cũng có”
Quan niệm về chủ quyền của một quốc gia, dân tộc đã được nhắc đến trước đó qua Nam quốc sơn hà. Tuy nhiên, giai đoạn trước chủ quyền quốc gia thường được tập trung thể hiện qua yếu tố lãnh thổ và các triều đại chính trị. Đến Nguyễn Trãi, quan niệm này được phát triển đầy đủ hơn vừa có sự thừa kế tư tưởng của triều đại Lý, Trần vừa có những nét chuyển biến mới lạ. Nguyễn Trãi đã xếp văn hiến “vốn xưng nền văn hiến đã lâu” vào vị trí đầu tiên khi nhắc đến sự toàn vẹn của một dân tộc. Ngoài yếu tố địa lý, chính trị được kế thừa, Nguyễn Trãi còn nhấn mạnh phong tục tập quán và truyền thống lịch sử. So với lãnh thổ, chính trị thì bản sắc văn hoá của một dân tộc mới là yếu tố hàng đầu quyết định sự tồn vong của dân tộc ấy. Lịch sử đất nước đã chứng minh khi các triều đại phương Bắc xâm chiếm, chúng ta vẫn không bị chúng đồng hoá về tiếng nói, phong tục, tập quán vì thế mà chúng ta mới nắm giữ được chìa khoá chốn lao tù.
Quan niệm về quốc gia, dân tộc của Nguyễn Trãi đã xây dựng nên luận đề chính nghĩa và phản ánh được quá trình trưởng thành của ý thức dân tộc. Khi có cái nhìn đúng đắn về các yếu tố làm nên tổ quốc thì mới có thể huy động được nguồn sức mạnh mà chiến đấu kẻ thù.
Như vậy, có thể thấy ngay trong phần một của bản cáo trạng Nguyễn Trãi đã khẳng định chân lý: Mọi hành động nhân nghĩa chân chính đều hướng đến mục đích yên dân, đem lại ấm no, hòa bình cho nhân dân. Đâu chỉ thế, lý do chính đáng để tiến hành chiến tranh không phải vì lợi ích của một giai cấp mà là lợi ích của toàn dân thông qua việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ nền văn hiến đã được nhân dân xây dựng từ lâu đời.
Bình Ngô đại cáo còn là bản cáo trạng đanh thép về tội ác của giặc Minh. Nhắc đến những tội ác mà kẻ thù gieo vào đời sống nhân dân khó mà dùng một vài hình ảnh để liệt kê hết. Vậy mà Nguyễn Trãi lại có khả năng chọn lọc những chi tiết cụ thể, sinh động lại nén chặt thông tin về những chứng cứ khốc liệt trong những năm tháng quân Minh đô hộ. Tội ác của chúng vừa tác động đến đời sống của nhân dân vừa làm cạn kiệt tài nguyên, thiên nhiên, núi sông phẫn nộ.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạDối trời lừa dân đủ muôn ngàn kếGây thù kết oán trải mấy mươi nămBại nhân nghĩa nát cả đất trời.Nặng thuế khóa sạch không đầm núi.”
Bao nhiêu kiếp người khổ sở bị đẩy vào bước đường cùng. Nghề canh cửi tan tác, phu phe nặng nề “Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa”. Bao nhiêu góa phụ rơi vào bể khổ khi người thân mình bị bắt đi “dòng lưng mò ngọc”, “đãi cát tìm vàng”. Cả cỏ cây, rừng núi cũng không được yên ổn khi bọn chúng vơ vét hết cho kỳ được “chốn chốn lưới giăng”, “nơi nơi cạm bẫy”. Hành động xấu xa của chúng khiến cho đất trời cũng không thể dung tha “bại nhân nghĩa nát cả đất trời”. Cái hay của Nguyễn Trãi là không chỉ liệt kê các sự việc mà còn kèm theo đó là lời bình để thể hiện thái độ lên án quyết liệt đối với tội ác của kẻ thù.
Thay vì cố dồn nén nhiều sự kiện vào trong bài cáo, Nguyễn Trãi chọn cách tăng cường chất lượng phản ánh hiện thực bằng việc lựa chọn những chi tiết hàm súc. Ngọn lửa thiêu người trong đoạn cáo trạng này chính là chi tiết đắt giá có thể kể đến.
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tànVùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ”
Ngọn lửa ấy chính là tội ác, là sức mạnh huỷ diệt con người, nó tượng trưng cho chiến tranh khốc liệt và thảm cảnh tàn bạo mà bàn tay giặc đô hộ gây ra. Lửa đã giết bao nhiêu mạng người, lửa thiêu đốt cả cơ đồ, phá huỷ chùa chiền, lăng tẩm, Ngọn lửa của sự bạo tàn, lòng tham vọng đã thiêu sống con đen, dân đỏ trong suốt hai thập kỷ. Hình ảnh tiếp theo phải kể đến là “nước Đông Hải” và “trúc Nam Sơn”. Tội ác của chúng nước biển mênh mông đến đâu cũng không rửa sạch, cả rừng trúc Nam Sơn rộng lớn cũng không thể ghi hết.
“Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!”
Ở phần vạch trần tội ác của kẻ thù, Nguyễn Trãi đã dùng những chi tiết, hình ảnh vừa có tính bao quát vừa có giá trị hiện thực cùng với giọng văn thống thiết đau xót, phẫn uất đã nói rõ thái độ quyết liệt của tác giả trước những gì quân Minh gây ra chi nhân dân. Tập trung kể về tội ác kẻ thù cũng chính là tạo sự đối lập trong lý tưởng chính nghĩa của quân Lam Sơn. Trong thế trận này, giặc phi nghĩa, ta chính nghĩa và không còn nghi ngờ gì nữa, chính nghĩa ắt thắng hung tàn.
Ngòi bút tài hoa của Nguyễn Trãi đã tái hiện không khí bão táp của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Ở đó, hiện lên nổi bật vẫn là hình tượng người anh hùng Lê Lợi và bản anh hùng ca của thời đại.
“Núi Lam sơn dấy nghĩaChốn hoang dã nương mìnhNgẫm thù lớn há đội trời chungCăm giặc nước thề không cùng sốngĐau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trờiNếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.”
Người anh hùng áo vải, xuất thân từ tầng lớp bình thường nhưng lại trở thành hình tượng trung tâm bừng sáng. Đọc từng câu văn ta như nghe được tiếng lòng phẫn uất, nỗi trăn trở từ thời các anh hùng Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Toản “đau lòng nhức óc”, “nếm mật nằm gai”..Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn ban đầu gặp rất nhiều khó khăn vì Lê Lợi chỉ là một hào trưởng địa phương, sức ảnh hưởng không nhiều. Lại thêm sức mạnh quân đội của nhà Minh đã dập tắt hầu hết những cuộc khởi nghĩa cùng thời. Sức dân đã cạn, lòng tin cũng hao mòn. Vì thế mà lắm phen nghĩa quân rơi vào lao đao, bế tắc, thiếu cả lương thực, vũ khí, nhân tài, bị vây hãm nhiều ngày trên núi Chí Linh.
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm,Nhân tài như lá mùa thu,Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,Nơi duy ác hiếm người bàn bạc”
Và
“Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,Lúc Khôi Huyện quân không một đội.”
Hoàn cảnh có khốn cùng đến một mất một còn thì người anh hùng đất Lam Sơn vẫn không sờn lòng, nản chí. Cốt cách của người hào trưởng nhân dân không sợ gian khổ, vươn lên trở ngại.
“Trời thử lòng trao cho mệnh lớnTa gắng trí khắc phục gian nan.”
Người lãnh đạo sáng suốt biết tìm trong bóng tối gian khó để nhận ra con đường ánh sáng, tìm được giải pháp có tính chất chiến đấu lâu dài. Và không giải pháp nào hơn là tinh thần đoàn kết của nhân dân. Chính sức mạnh này đã giúp nghĩa quân vượt qua giai đoạn đầu thiếu thốn mà ngày càng lớn mạnh.
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phớiTướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.”
Đâu chỉ vận dụng sức mạnh quần chúng để đánh giặc, người lãnh đạo sáng suốt còn biết thông minh, sáng tạo để sử dụng chiến thuật hay khắc phục từng bước khó khăn.
“Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.”
Từ phẩm chất của người lãnh đạo Lam Sơn, Nguyễn Trãi muốn nói đến phẩm chất của toàn quân khởi nghĩa. Từ việc khắc hoạ tài năng của Lê Lợi, Nguyễn Trãi lại muốn hướng đến hình ảnh các vị tướng lĩnh và toàn thể quân đội. Ông không hề nhắc đến một cái tên riêng kể cả vị chủ soái, điều đó có thể giải thích vì nhà văn không muốn miêu tả những người anh hùng cá nhân mà muốn làm nổi bật tầm vóc, khí thế của đoàn quân Lam Sơn dựa trên sức mạnh đoàn kết không gì chia cắt được. Họ không phải là một người mà là một tập thể thống nhất “sĩ khí, quân thanh, sĩ tốt, bề tôi”..
Nguyễn Trãi cũng điểm qua những trận chiến có ý nghĩa quan trọng đối với chiến thắng sau cùng của quân Lam Sơn. Nhiều hình ảnh tượng trưng được sử dụng kết hợp với giọng điệu tăng tiến, dồn nén đầy tự hào.
“Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.”
Hai trận Trà Lân và Bồ Đằng là hai trận đánh mở màn cho bước phản công mạnh mẽ của nghĩa quân. Cách miêu tả của nhà văn cho chúng ta liên tưởng đến bước đi của một cơn bão lớn khi mà mọi hiện tượng đã xuất hiện. Đến đoạn miêu tả cảnh viện binh của Liễu Thăng bị chặn đánh tơi bời ở Mã Yên, ta lại nghe được cả tiếng ầm ầm thác lũ, tiếng cuồng phong bão táp.
“Nổi gió to trút hết lá khôThông tổ kiến phá toang đê vỡ”
Cơn bão giông đâu dừng lại ở đó khi mà sức mạnh quân sự của quân Lam Sơn ngày một tăng cường. Đất trời mù mịt, ngả nghiêng như trút hết căm hờn vào bọn xâm lăng.
“Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi,Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ”
Nguyễn Trãi không dùng tên riêng, không đặc biệt ghi công một vị tướng nào của nghĩa quân. Tuy nhiên khi kể đến sự thất bại thảm hại của quân Minh, nhà văn lại liệt kê hàng loạt những tên tuổi như thế lại càng tăng sự mỉa mai, chỉ đích danh cái xấu, cái ác.
“Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân.”…
“Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy
Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng”
Chưa dừng lại ở đó, nhà văn đôi khi còn gọi cả tên tuổi, chức tước để châm biếm sâu cay.
“Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vongNgày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn.”
Sự thất bại thảm hại của kẻ thù được Nguyễn Trãi hình dung bằng hai từ “máu” và “thây”. Một đoạn văn có đến ba lần cặp hình ảnh này xuất hiện chính là chứng tỏ cho kết cục hoàn toàn bại hoại của quân Minh.
“Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặmTốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.”
“Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đườngXương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước”
“Suối Lãnh Câu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khócThành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.”
Sự độc đáo của đoạn văn là khả năng dồn nén thời gian, bỏ qua các giai đoạn chuyển tiếp để những sự kiện nổi bật lần lượt xuất hiện với tần suất cao. Chính điều đó đã tạo cảm giác về mức độ tăng tiến của cuộc chiến. Càng về cuối, chiến thắng càng dồn dập không thể tính theo trận mà tính theo ngày, theo từng hồi trống.
“Đánh một trận, sạch không kình ngạcĐánh hai trận tan tác chim muông.”
Có thể nói đoạn văn tổng kết những chiến công oanh liệt và sự thất bại của quân Minh được viết bằng giọng điệu biến hoá, linh hoạt, lúc ca ngợi, hào khí lúc mỉa mai, châm biếm, lúc lại trầm hùng, hào sảng. Đọc từng câu văn mà cứ ngỡ tấm lòng của Nguyễn Trãi tuôn trào ra đầu ngọn bút.
Bình Ngô đại cáo kết thúc bằng bản tuyên ngôn khẳng định chủ quyền thống nhất dân tộc, mở ra kỷ nguyên hưng thịnh của vương triều hậu Lê.
Mục đích của cuộc chiến chính nghĩa bao giờ cũng là sự yên ổn, hoà bình. Thế nên khi đã đánh đuổi quân thù ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Trãi đã dùng ngòi bút của mình thể hiện niềm vui, niềm tự hào và tin tưởng của tương lai. Giọng điệu phấn chấn , lạc quan khiến người đọc liên tưởng đến khúc khải hoàn ca của một vị tướng lừng danh thời Trần.
“Thái bình tu chí lựcVạn cổ thử giang san”
(Trần Quang Khải)
Dựa trên quy luật tất yếu của trời đất, bĩ rồi lại thái, hối rồi lại minh, Nguyễn Trãi muốn chứng minh đất nước ta đã đến hồi đại thắng, rồi đây sẽ là giai đoạn thái bình, thịnh trị lâu dài.
“Xã tắc từ đây vững bềnGiang sơn từ đây đổi mớiCàn khôn bĩ rồi lại tháiNhật nguyệt hối rồi lại minh”
Hình ảnh “một cỗ nhung y” chứa đựng hàm ý ngợi ca Lê Lợi. Một người lãnh đạo toàn tài hiếm có sẽ là một đấng minh quân sau này mở ra triều đại vững bền.
Phần cuối của bản cáo giọng văn dàn trải, lời văn trịnh trọng đầy hưng phấn như một lời khẳng định đầy niềm tin tưởng. Cả Bình Ngô đại cáo xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của chủ nghĩa yêu nước trong nền văn học thế kỷ XV nói riêng văn văn học học trung đại nói chung. Ngoài việc tổng kết luận đề về chính nghĩa, chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn, ca ngợi hình tượng người lãnh đạo Lê Lợi và sức mạnh đoàn kết của toàn quân, Bình Ngô đại cáo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của bản cáo trạng đanh thép về tội ác của kẻ thì và sự thất bại tất yếu của chúng.
Chiến tranh vì chính nghĩa, đứng lên vì bảo vệ lợi ích của nhân dân, một tư tưởng tiến bộ của thời đại được khởi xướng từ nhà chí sĩ yêu nước Nguyễn Trãi, điều đó cũng chứng minh về sự phát triển vượt bậc của tư tưởng, niềm tự hào dân tộc, cái nhìn mang tính chất tương lai khi trao nhiệm vụ gánh vác đất nước cho toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo xứng đáng là bản hùng văn thiên cổ cũng là một tác phẩm kiệt xuất cho sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
Bài tham khảo 2
Từ xưa cho đến nay, ngoài bản Tuyên ngôn độc lập của chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố cho nền độc lập, cho chủ quyền lãnh thổ của đất nước ta thì còn có hai áng thiên cổ hùng văn khác cũng được coi như là hai bản tuyên ngôn độc lập bất hủ trong lịch sử. Đó là Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Ở mỗi một thời đại với những hoàn cảnh khác nhau, những cái nhìn khác nhau, song ta thấy ở mỗi một bản tuyên ngôn những giá trị về tư tưởng vô cùng tiến bộ và đúng đắn. Nếu như tác phẩm Nam quốc sơn hà đã khẳng định chắc chắn về chủ quyền lãnh thổ, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh cho thấy quyền con người lớn lao thì Bình Ngô đại cáo lại là một khía cạnh khác. Đó là tư tưởng phải chăm lo cho muôn dân, yêu dân và dẹp trừ bạo loạn, để cuộc sống nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Điều này được thể hiện rất rõ thông qua đoạn 1 của tác phẩm.
Sau khi nước ta giành được thắng lợi của cuộc chiến chống quân Minh, vua Lê Lợi đã lệnh cho Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo. Năm 1428, bài cáo này đã được công bố đến toàn thể nhân dân. Bình Ngô đại cáo đã thuật lại và tổng kết lại quá trình đánh đuổi quân Minh khỏi bờ cõi của nhân dân ta, cho thấy chiến thắng vang dội cùng lời tuyên bố hùng hồn về chủ quyền của dân tộc. Tác phẩm được viết bằng thể cáo, là một thể văn nghị luận có nguồn gốc từ Trung Quốc, nhà vua ban bố nó để cho toàn thể nhân dân mà mọi người trong đất nước được biết. Bình Ngô đại cáo gồm có ba phần với sự liên kết chặt chẽ với nhau. Phần một thể hiện tư tưởng của tác giả, đó là tư tưởng nhân nghĩa. Đến phần thứ hai, Nguyễn Trãi đã vạch trần những tội ác của giặc Minh xâm lược và phần cuối cùng chính là sự thuật lại những trận đánh, những chiến công trong cuộc chiến của quân dân ta. Cả bài cáo thể hiện lên lòng tự hào dân tộc sâu sắc cùng với lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ hùng hồn mà không kẻ địch nào có quyền được xâm phạm tới. Ta đặc biệt chú trọng đến tư tưởng nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong đoạn 1 của tác phẩm này.
Xưa kia, trong xã hội phong kiến, tư tưởng Nho giáo là một hệ tư tưởng gắn chặt với nhân dân. Và Nguyễn Trãi cũng không ngoại lệ. Bài cáo mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có nguồn gốc từ Nho giáo:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Trước hết, ta cần phải hiểu được nhân nghĩa là gì? Nhân là người, nghĩa là việc nghĩa. Nhân nghĩa là một tư tưởng, là những hành động phải đứng về phía lẽ phải, vì quyền và lợi ích của con người, bảo vệ cho lợi ích của con người. Nguyễn Trãi coi nhân nghĩa chính là một tư tưởng đầu tiên cần phải có để trị vì đất nước. Để đất nước được phát triển thịnh vượng, không có bóng giặc ngoại xâm, đời sống của nhân dân được ấm no, hạnh phúc thì người đứng đầu đất nước là nhà vua phải có trách nhiệm yêu dân, thương dân như con, luôn đặt lợi ích của con dân nước mình lên hàng đầu. Tuy nhiên, chỉ yêu dân và thương dân thôi là chưa đủ, bậc đế vương còn phải biết “trừ bạo”. Bạo ở đây chính là bạo loạn, là bọn giặc Minh sang xâm lược nước ta. Cái ác đang hiện hữu trước mắt và người đứng đầu đất nước phải có trách nhiệm dẹp trừ, tiêu diệt nó, đấu tranh cho độc lập, toàn vẹn lãnh thổ. Từ tình yêu thương, lo nghĩ cho nhân dân hình thành tư tưởng, thành hành động chống lại kẻ thù xâm lược. Đây cũng chính là lí do và giá trị cốt lõi làm nên thành công của cuộc chiến chống giặc Minh của vua Lê Lợi.
Để chứng minh cho tư tưởng của mình, Nguyễn Trãi đã nêu ra những dẫn chứng trong lịch sử:
'Như nước Đại Việt ta từ trướcVốn xưng nền văn hiến đã lâuNúi sông bờ cõi đã chiaPhong tục Bắc Nam cũng khácTừ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lậpCùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phươngTuy mạnh yếu từng lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có'.
Nước Đại Việt ta trước kia đã xưng nền độc lập khắp bốn phương, ta có nền văn hiến từ ngàn xưa, có sự phân chia rõ ràng, rành mạch về địa lí, về lãnh thổ đối với các quốc gia khác. Ta cũng có những nền văn hóa riêng biệt ở Bắc và Nam. Như các triều đại đi trước, từ thời nhà “Triệu, Đinh, Lí, Trần” đều đã xây dựng được nền độc lập. Không những vậy, Nguyễn Trãi còn lấy ví dụ về các triều đại ở Trung Quốc: “Hán, Đường, Tống, Nguyên” đã từng xưng đế một phương. Qua các triều đại trong lịch sử với nền độc lập, chủ quyền mà họ đã xây dựng thì đều là những chứng cứ không thể chối cãi được. Tầm nhìn sâu rộng của Nguyễn Trãi được thể hiện ở chỗ, ông không chỉ lấy ví dụ về các triều đại trong nước mà còn lấy chứng cứ từ Trung Quốc, nhằm tăng thêm tính đúng đắn của lập luận này. Mỗi một thời kì đều có những nhân tài, những vị anh hùng kiệt xuất:
“Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhauSong hào kiệt thời nào cũng có”
Nguyễn Trãi khẳng định rằng hào kiệt của đất nước không bao giờ thiếu, bởi mỗi thời đại đều sản sinh ra nhiều người tài giỏi cống hiến cho đất nước. Họ đã làm cho những kẻ thù phải chịu những sự thất bại, nhục nhã:
'Lưu Cung tham công nên thất bại,Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,Cửa Hàm tử bắt sống Toa ĐôSông Bạch Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi'.
Hàng loạt những cái tên được nêu ra: “Lưu Cung, Triệu Tiết, Cửa Hàm, Ô Mã” đều là những kẻ địch ham danh, hám lợi đi xâm lấn nước khác. Kết cục mà chúng phải chịu là vô cùng đớn đau. Nguyễn Trãi đã sử dụng một loạt các động từ mạnh như “bắt sống”, “giết tươi” cho thấy thái độ quả quyết, không khoan nhượng trước những thế lực thù địch. Một khi chúng đã dám sang xâm lược và làm tổn hại đến lợi ích, đến đời sống của nhân dân, đến nền độc lập của đất nước thì chúng sẽ phải chịu hậu quả khôn lường. Hai câu thơ cuối đoạn một là lời khẳng định chắc nịch của tác giả:
“Việc xưa xem xét,Chứng cớ còn ghi”
Tác giả kết lại tư tưởng 'nhân nghĩa' của mình bằng một lời khẳng định “Chứng cớ còn ghi”. Đây là thực tế lịch sử không thể chối cãi được, không thể phủ nhận được. Những triều đại đi trước đã có những chiến công lẫy lừng, đã giành lấy nền tự chủ thì cớ gì ta lại không làm được, huống hồ vị vua Lê Lợi là một người vô cùng anh minh, sáng suốt và lo cho cuộc sống của nhân dân. Cũng có thể cho rằng đây là lời kết lại của luận điểm đầu tiên, để tác giả vạch trần những tội ác của giặc Minh ở phần sau.
Với những lập luận sắc bén, logic, có chứng cứ rõ ràng, rành mạch, Nguyễn Trãi đã làm nổi bật lên tư tưởng chủ đạo của đoạn một. Đó chính là “tư tưởng nhân nghĩa”, phải yêu thương nhân dân, chăm lo cho cuộc sống của nhân dân và dẹp trừ bạo loạn đang tồn tại lúc bấy giờ. Ta thấy được ở tác giả một tấm lòng chăm lo đến người dân sâu sắc, một trợ thủ đắc lực, tư duy hơn người, phò tá cho đế vương.
Nguyễn Trãi là một trong những tác giả lớn của nền văn học Việt Nam xưa kia, điều đó được thể hiện rất rõ qua tác phẩm này. Bình Ngô đại cáo cho đến nay vẫn là một bản tuyên ngôn độc lập mạnh mẽ, hùng hồn mỗi khi nhắc lại.