Tác giả tác phẩm Giang (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Giang Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 82 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Giang - Ngữ văn 10

I. Tác giả

- Tác giả Bảo Ninh tên thật là Hoàng Âu Phương, sinh vào tháng 10 năm 1952. Ông quê ở xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình.

- Nhà văn bắt đầu con đường sáng tác của mình ở tuổi 32, ông học tại trường viết văn Nguyễn Du trong vòng hai năm, sau đó làm việc tại báo Văn nghệ Trẻ và trở thành thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam kể từ năm 1997.

- Sáng tác đầu tiên của nhà văn là Trại bảy chú lùn được xuất bản năm 1987. Cũng cùng năm đó, tác phẩm đưa tên tuổi của ông đến gần hơn với người đọc là Thân phận tình yêu, sau được đổi tên là Nỗi buồn chiến tranh chính thức ra mắt người đọc.

Giang - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Giang

Năm ấy tôi mười bảy tuổi, binh nhì, chiến sĩ của tiểu đoàn 5 tân binh. Tiểu đoàn chúng tôi luyện quân ở Bãi Nai. Bấy giờ đã là vào cuối khoá huấn luyện ba tháng, kiểm tra xạ kích, đạt điểm cao nhất đại đội, tôi được thưởng hai ngày phép. Đại đội trưởng linh động cho tôi miễn bình tuần tối thứ Sáu. ”Đã được lãi một tối càng phải liệu mà về cho khuýp giờ điểm danh đấy nhá”. Anh dặn tôi thế, ra ý đe.

Chuyến về nhờ bám được xe quân sự chạy trên đường 6 nên phi cái vù đã tới nhà. Chuyến trở lại phải chen xe khách. Chín giờ tối chủ nhật mới điểm danh mà chỉ dám nấn ná cố cùng tới 12 giờ trưa là phải bứt khỏi nhà chạy nhào ra bến Kim Mã. Chen lên được một chuyến xe vào thời buổi gian khó ấy khổ sở đến thế nào, khỏi bàn. Thêm nữa lại ngày giáp Tết. Do may mắn và cũng là do ẩu tả ngồi lèn nhau trên nóc xe nên đến nhập nhoạng tối thì tôi nhảy được xuống thị trấn Lương Sơn. Đói mèm, rét run, lại luớ quớ trượt chân ngã, tuột tung quai dép và lấm be bét.

Trật trưỡng tôi dò tới cái giếng xây ở đầu trấn để rửa ráy qua loa tý chút và xâu lại dép. Chỉ có một người đang múc nước ở giếng. Trời mưa nhưng rất mỏng, như sương, và chưa tối hẳn nên từ khá xa tôi đã nhận ra một cái dáng con gái. Khi tôi tới bên giếng, hai thùng tôn của gánh nước đã được đổ đầy, cô gái cuộn dây gầu, tra đòn gánh vào hai móc xích, và trước khi lên gánh, cô đội lại chiếc nón mà lúc cúi múc nước cô đã bỏ ra để ngửa bên thành giếng. Với con mắt lính 17 tuổi nhanh như chớp tôi lườm ngay thấy tên cô nàng viết bằng mực tím ở trong vành nón, cả tên, cả họ, cả đệm, và cả lớp học của cô nữa. Phạm Nhật Giang. 10 B.

Không để ý đến tôi, cô đặt gánh lên vai. Tôi nói, vội vã, nhưng thản nhiên, như thật:

– Kìa, Giang. Cho anh mượn cái gầu đã nào.

Cô gái hạ gánh, nhìn tôi.

– Chào anh, anh bộ đội… – Cô nói, ngập ngừng, nhưng có lẽ chưa kịp ngạc nhiên – Gầu đây anh.

Tôi xoè hai bàn tay bê bết bùn ra.

– Ôi anh bị lấm hết rồi.- Cô gái khẽ thốt lên – Thôi, để em.

– Ừ. Nhờ Giang vậy, chứ không thì bẩn hết cả dây.

Cô gái múc lên một gầu, hai gầu, xối từ từ cho tôi rửa kỹ hai bàn tay.

Khi tôi định đón lấy chiếc gầu, cô bảo:

– Cái gầu này khó múc lắm. Để em giúp anh.

Cô lại thòng nhanh sợi chão xuống bóng tối sâu hút bên dưới rồi thoăn thoắt, mềm mại, kéo gầu nước lên. Nhưng sự ân cần của cô còn hơn thế. Mỗi gầu nước múc lên cô không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống, một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở bàn chân, ngón chân, bắp chân tôi. Ngây ra, tôi đứng yên, sững lặng cảm nhận cái ân tình hồn nhiên và bất ngờ ấy. Rất lâu, hai đứa chẳng nói gì, cô gái lặng lẽ gột rửa cho tôi, tôi thì bất động. Cô cọ kỹ cho tôi cả đôi dép đúc.

– Tươm rồi đấy, anh – Cô gái nói trong bóng tối.

– Cám ơn nhé, Nhật Giang!

Cô gái trở lại với nỗi ngạc nhiên:

– Ô kìa. Ừ nhỉ, sao anh biết tên em?

Tôi cười, không đáp

– À, em biết rồi. Anh tọa độ chứ gì mà. Các anh bộ đội chuyên thế. Cứ gọi: Lan, Hằng, Liên, Oanh thế nào cũng trúng, chứ gì?

– Nhưng Giang, lại Nhật Giang nữa, chắc không có hai người tên như thế đâu, đoán mò sao được.

– Chắc anh đóng ở gần đây.

– Chả gần lắm, tận xóm Đượm.

– Bao xa anh?

– Giang không phải người đây à?

– Vâng, em mới Hà Nội lên – Giang đáp, và chợt cô rủ tôi:

– Nhà em đang trọ ở ngay kia, anh vào nghỉ một lát.

Tôi do dự:

– Chín giờ, đơn vị điểm danh rồi… mà còn non chục cây.

– Còn sớm, mới sáu giờ kém mà, anh.

Tôi muốn hộ Giang gánh nước, nhưng cô không chịu. Tôi theo sau cô vào sâu một cái ngõ tối. Một mình Giang một túp nhà nhỏ, mái gianh vách đất. Không có đồ đạc gì. Một chiếc giường đơn, một ngọn đèn hoa kỳ trên chiếc chõng tre, bộ ấm tích, điếu bát. Một chiếc xe đạp Phượng Hoàng dựng ở gần cửa.

Tôi mở túi phòng hóa đeo bên hông lấy gói bít cốt mẹ dúi cho hồi trưa, và rót chè tươi trong ấm tích ra bát. Bít cốt chiêu với chè tươi, định thế. Thấy vậy đang lúi húi xâu lại quai dép cho tôi, Giang vội kêu lên:

– Ôi em quên. Có cơm mà, để em dọn mời anh.

Tôi gạt đi, nhưng Giang nài tôi chịu khó chờ cô xuống bếp hâm lại cơm canh mà ăn uống cho chắc dạ và nóng sốt.

Trong lúc chờ Giang, tôi ngả phứa ra giường cô, châm thuốc hút và lim dim mắt, thả khói. Chợt cửa ra vào mở. Một người đàn ông cao lớn bước mạnh vào. Tôi giật bắn mình, bật chồm dậy. Ông nọ vận đại cán vải dạ xanh sẫm, giầy da Cô-xư-ghin, quân hàm ve áo hai sao hai vạch.

– Cậu là ai? Đâu chui vào đây? – Nghiêm sắc mặt, ông trung tá hỏi, chằm chằm nhìn.

Tôi dập gót:

– Báo cáo, tôi…

Vừa khi đó Giang bưng mâm cơm đi từ sân sau vào.

– Bố về rồi đấy ạ – Cô vội vã nói – Bố ơi, đây là Hùng, bạn học lớp 10 với con. Anh ấy đóng quân gần đây. Chúng con tình cờ gặp nhau vừa nãy.

Ông trung tá dịu nét mặt, nhưng giọng vẫn nghiêm:

– Đóng gần đây à? Đồng chí đơn vị nào?

– Báo cáo thủ trưởng, tôi ở C7 K5 đoàn 91.

– Thế đồng chí đi đâu, sao giờ này còn tụt tạt ngoài đây?

– Báo cáo thủ trưởng, tôi về phép lên. Đơn vị chín giờ mới điểm danh.

– Thế đồng chí định để đúng điểm danh mới có mặt à? Phải về đơn vị sớm hơn chứ.

– Kìa bố – Giang kêu lên – Bố để cho anh ấy ăn cơm đã. Bố cũng ăn luôn với bọn con đi.

– Không đâu, tớ không ăn đâu! – Tôi hoảng lên – Tớ phải chào đây, Giang!

Ông bố Giang mỉm cười, vỗ nhẹ vai tôi, bảo:

– Từ đây về xóm Đượm sáu cây, còn kịp. Cậu ăn cơm đi, ngồi chơi với Giang. Bạn học lâu ngày gặp nhau. Nhưng rồi phải ráo chân lên. Vẫn phải về kịp trước điểm danh, rõ chưa!

– Thì bố xin hộ cho anh ấy, bố! – Giang nói, nũng nịu – Bố gọi cho cấp chỉ huy của anh ấy. Chúng con học cùng từng ấy năm, gặp nhau chuyện tới khuya chẳng hết.

– Không được – ông bố cười, lắc đầu – Bạn hữu gặp gỡ thế này là quí, nhưng con không có được nhũng nhẵng con cà con kê giữ bạn lại quá lâu. Đừng có để bạn phạm kỷ luật.

Ông nhìn đồng hồ.

– Sáu rưỡi rồi – ông nói – Hai đứa khẩn trương cơm nước đi. Tối nay bố không ăn với con được. Bố phải qua đơn vị. Phải họp khuya đấy. Con một mình ở nhà cửa giả cho cẩn thận.

Ông bước tới bên cửa, cầm lấy ghi đông chiếc xe đạp, và nhìn tôi, ông nói:

– Hùng ngồi chơi nhá. Nhưng nhớ giờ giấc đấy.

– Kìa bố, bố lấy xe đạp ạ! – Giang kêu lên – Con định đưa anh ấy về đơn vị cơ mà, bố! Bố chịu khó đi bộ, bố nhá. Chỗ bố gần ngay đây mà.

– Không! Đừng mà… – Tôi hãi quá – Giang đừng vậy…

Ông trung tá cười, bảo:

– Con gái con đứa thế đấy. Chiều bạn hơn bố. Nhưng bố nhất trí, bố để xe cho hai đứa. Chứ mà cuốc bộ thì con làm Hùng chậm giờ mất. Có điều đường đồi ban đêm hai đứa lai nhau cho cẩn thận, đừng có phóng nhanh kẻo ngã. Đưa Hùng tới đơn vị rồi lúc quay về một mình con cứ đạp từ từ, nhìn đường. Nhưng cũng gắng đừng có thong dong quá đấy. Trời lạnh thế này. Với lại con về khuya bố không yên tâm đâu.

Tối ấy, tôi lai Giang vào sâu trong Bãi Nai. Đồng rừng tối câm, lạnh lẽo. Con đường đồi quạnh vắng, không ngừng uốn lượn và gấp khúc. Gió bấc lúc thuận lúc ngược, nhưng mà tôi không thấy mệt, tôi đạp mải miết. Tôi chưa khi nào đèo con gái. Cả hồi năm ngoái học lớp 10, được bố mẹ ưu tiên sắm riêng cho hẳn một cái Mi-pha tha hồ tung hoành phá phách, tôi cũng chỉ đạp xe rong phố với những thằng bạn. Chưa từng bao giờ có một nữ nhi ngồi sau xe tôi, áp mình tin cậy vào tôi như thế này. Đây là lần đầu. Chiếc Phượng Hoàng nặng chịch mà chẳng nặng một chút nào. Tôi guồng cẳng đạp, bám theo vệt trắng mập mờ của con đường, lên dốc, xuống dốc, quành rẽ, lạng tránh, lao rất nhanh và phanh giật cục. Giang ngồi vững và thật êm sau tôi. Thỉnh thoảng chúng tôi mới nói chuyện, mà chỉ Giang nói. Giang là trò Trưng Vương, vừa tốt nghiệp lớp 10 trong năm, hiện giờ đã là sinh viên của trường Tổng hợp. Nhà cô trong ngõ Chợ phố Khâm Thiên. Túp nhà ban nãy là bố cô mượn của một người quen ở thị trấn để đón cô lên ăn Tết cùng ông. Mẹ cô mất năm ngoái, anh trai thì mới vừa đi Bê tháng trước.

– Tết ra chơi với bố con em, anh nhé. Nhà chỉ hai bố con mà cái thị trấn khỉ ho cò gáy này thì buồn ơi là buồn. Em sẽ nói khó để bố vào hẳn đơn vị đón anh. Rồi chúng mình xin phép bố lỉnh về Hà thành vài hôm. Bố em chiều em lắm, sẽ đồng ý thôi. Mà bố đã thuận thì nhất định thủ trưởng đơn vị anh cũng nhất trí.

Chúng tôi chia tay ở chân đồi Gừng, đầu con đường mòn dẫn vào xóm Đượm nơi đơn vị tôi trú quân.

– Hay là Tết em trốn vào đây với anh?

Giang hỏi, và không hiểu sao lại thở dài.

Tôi cứ đứng mãi ở ven đồi. Mặc dù không thể nhìn thấy gì trong màn đen dày đặc đêm cuối năm, tôi vẫn cứ nhìn mãi theo Giang. Chia tay, tôi đã không nói được một điều gì cả, đã không kịp ngỏ một lời nào. Cả địa chỉ của Giang nữa cũng không hỏi rõ. Chỉ biết Khâm Thiên, ngõ Chợ.

Hai hôm sau, tối ngày 27 Tết, tiểu đoàn tôi nhổ neo rời Bãi Nai. Hành quân qua Thường Tín, lên tàu ngay, không có 15 ngày phép thông lệ của lính Bê dài. Đây là một đợt tăng cường rất lớn cho chiến trường. Cả một Sư cùng lúc lên đường, gấp gáp tiến quân, vượt ngàn dặm Trường Sơn vào Nam. Vừa đặt chân lên đất Tây Nguyên đã vào ngay chiến dịch. Các đơn vị của Sư đoàn phiên hiệu khác đi nhưng vẫn giữ nguyên đội hình từ ngoài Bắc. Tiểu đoàn của tôi đánh trận mở màn, và đại đội của tôi là mũi chủ công. Trước giờ nổ súng, đích thân tham mưu trưởng sư xuống kiểm tra công tác chuẩn bị chiến đấu của chúng tôi. Mặc dù ông xuống ”kiềng” cùng với một nhóm khá đông trợ lý và trinh sát, mặc dù ông cũng trang bị và nai nịt như mọi người, tiểu liên AK, dép đúc, mũ cối, áo lính tô châu, nhưng trong bóng rừng nhập nhoạng tôi vẫn nhận ra ông ngay. Ông chính là ”ông bô” của Giang!

Tôi toan lỉnh, song ông trông thấy tôi tức thì. ”Kìa, Hùng, Hùng đấy hả Hùng!”. Giọng ông ngạc nhiên, mừng vui. Ông thân thiết xiết chặt tay tôi và không nén được, ông cảm động ôm lấy tôi. ”Giang nó cứ nhắc cậu mãi, Hùng ạ. Nó cứ buồn vì không gặp lại được cậu trước khi chúng ta lên đường” Ông bảo: ”Giờ đây Giang nó ở lại ngoài đó có một mình”.

Gặp gỡ trước giờ nổ súng tất nhiên là chỉ thoáng nhanh, chỉ kịp nói mấy câu thế thôi. Tôi thì không nói được gì cả. Tôi chỉ ấp úng. Cả cái tên Hùng do con gái ông phịa vội ra, tôi cũng không thể cải chính.

Thời khắc gấp gáp không thể nấn ná, nhưng trước lúc đi, tham mưu trưởng sực nhớ một điều và vội vội ông nói với tôi: ”Giang nó có gởi cháu tấm ảnh của nó, nhưng tiếc quá, lại không mang theo đây. Để bữa sau vậy, Hùng nhé…”

Không có “bữa sau” ấy. Tôi không còn có dịp được gặp lại tham mưu trưởng. Cả tới mùa khô sau, được điều lên trinh sát sư đoàn, tôi vẫn không thể nào gặp lại được ông. Tham mưu trưởng của chúng tôi đã hy sinh vào cuối mùa khô năm đầu tiên sư đoàn chúng tôi lâm trận.

Chiến tranh, đời lính, tuổi trẻ, mọi sự là như thế, chỉ thế thôi, thoảng nhanh. Thoảng nhanh nhưng không tắt lịm. Chỉ thế thôi nhưng để rồi sau này cứ nhớ mãi. Trở thành nỗi đau. Những nỗi đau mất mát âm thầm.

Chắc là bây giờ Nhật Giang vẫn còn nhớ đến tôi, người lính trẻ vô danh hơn ba chục năm về trước. Tôi thì không bao giờ quên cô ấy, mặc dù thực ra là có gì đâu một tình cờ như thế, một gặp gỡ vẩn vơ, lưu luyến mơ hồ gần như không có thật mà năm tháng cuộc đời cứ mãi chồng chất lên muốn xóa nhòa.

III. Tác phẩm Giang

1. Thể loại

Truyện ngắn

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác

Trích từ tập truyện Bảo Ninh-những truyện ngắn

Truyện ngắn là chương 1 của tập truyện

- Truyện kể về chính những kí ức của tác giả khi tham gia vào quân đội 

Giang - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

3. Phương thức biểu đạt

Tự sự

4. Người kể chuyện

Tác giả

5. Tóm tắt tác phẩm Giang

Văn bản kế lại cuộc gặp gỡ tình cờ, duyên dáng giữa anh bộ đôi và cô gái tên là Giang. Cuộc gặp gỡ vô tình nhưng để lại rất nhiều những ấn tượng sâu sắc cho cả hai người trẻ tuổi.

6. Bố cục tác phẩm Giang

- Phần 1: từ đầu đến “ còn sớm, mới sáu giờ kém mà, anh”: Cuộc gặp gỡ ở giếng nước

- Phần 2: tiếp đến “ con về khuya bố không yên tâm đâu”: Cuộc gặp gỡ giữa bố Giang và nhân vật “tôi”

- Phần 3: còn lại: Cuộc chia tay giữa Giang và “ tôi”

7. Giá trị nội dung tác phẩm Giang

- Tình yêu quê hương, đất nước, tình người những đau khổ và hạnh phúc

- Ca ngợi những tâm hồn trẻ tuổi với những khao khát hồn nhiên, vô tư.

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Giang

- Giọng văn tự nhiên, nhẹ nhàng

- Lối kể chuyện chân thật, tỉ mỉ nhưng giàu cảm xúc

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Giang

1. Nhân vật Giang

- Tại giếng nước công cộng, khi tình cờ gặp anh tân binh.

+ “Không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở ngón chân, bàn chân và bắp chân tôi”

+ “Cô cọ kĩ cho tôi đôi dép đúc”

à Hành động ân cần, chu đáo, tinh tế và khéo léo, “ ân tình hồn nhiên”

- Tại nhà cùng với anh tân binh và bố Giang.

+ Dọn cơm mời anh tân binh

+ Mượn xe trở anh về

à Chu đáo, dễ thương.

- Tại chiến trường qua lời của bố Giang.

+ Luôn nhắc và nhớ đến nhân vật 'tôi'.

à Thủy chung, tình nghĩa

2. Cuộc chia tay giữa Giang và “tôi”

- Giang đèo tôi bằng xe đạp vào tận đơn vị ở Bãi Nai

- Nhắn nhủ nếu có cơ hội hoặc Tết mời đến nhà Giang chơi

- Chiêm nghiệm của tác giả về cuộc sống chiến tranh khốn khó, nhiều mất mát đau thương

=> Cuộc chia tay đầy xúc động, bịn rịn. Bên cạnh đó là những chiêm nghiệm về nõi đau, những tổn thất quá lớn mà chiến tranh gây ra.

3. Ý nghĩa văn bản

- Nói đến những kí ức trong thời chiến tranh sẽ là những kí ức còn mãi, trở thành nỗi đau âm thầm.

- Những cuộc gặp gỡ tình cờ, vẩn vơ nhưng sẽ để lại lưu luyến, nhớ mãi không thể xóa nhòa.

V. Các bài văn mẫu

Đề bài: Phân tích bài Giang

Bài tham khảo 1

Bảo Ninh là cây viết xuất hiện trên văn đàn một cách nhẹ nhàng, không ồn ào, dữ dội nhưng ngày càng chinh phục được trái tim của độc giả. Ông từng chia sẻ mình “biết nhiều câu chuyện đương thời ở Việt Nam, nhưng không viết”, nhà văn chỉ tập trung viết về quá khứ chiến trường và cái quá khứ xa hơn của nó ở Hà Nội mà ông vẫn gọi là “thành phố quê hương thứ hai của tôi”. Bằng những trải nghiệm, vốn kí ức giàu có và quý giá về chiến tranh, Bảo Ninh đã cho ra đời những tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Một trong số những truyện ngắn thành công về cả nội dung và nghệ thuật của tác giả là Giang - câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ “thoảng nhanh nhưng không tắt lịm” của những con người trong chiến tranh.

Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ nhỏ, nội dung “bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không nghỉ” (Từ điển thuật ngữ văn học). Cũng như các thể loại tự sự khác, những nét độc đáo của truyện ngắn có thể khai thác là: tình huống truyện, nghệ thuật miêu tả nhân vật, ngôi kể, điểm nhìn,… Đó cũng chính là những đặc sắc trong các sáng tác truyện ngắn của Bảo Ninh, được thể hiện khá đầy đủ trong truyện ngắn “Giang”.

Truyện ngắn “Giang” viết về đề tài chiến tranh - không nằm ngoài đối tượng mà Bảo Ninh luôn hướng tới, song ông tự ý thức sâu sắc trong việc thay đổi cách viết bởi trước ông đã có rất nhiều tên tuổi nổi bật, thành danh như Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê,… Tác phẩm viết về thời kì chiến tranh với hoài niệm, suy ngẫm của một người trong cuộc bước ra khỏi cuộc chiến, nhìn từ một góc độ khác: góc độ cá nhân, thân phận con người. Là một người lính, cũng là một thanh niên xung phong, Bảo Ninh đã giữ lại cho mình những kí ức đẹp đẽ trong những năm tháng máu lửa, và trong chuỗi kí ức đó có hình bóng của một cô gái, một “bóng hồng” để thương để nhớ trong tâm trí ông: Giang, Phạm Nhật Giang.

“Giang” là câu chuyện về cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng rất mực tình cảm, duyên dáng giữa cô gái Hà Nội Nhật Giang và anh bộ đội “Hùng” - cái tên Hùng được “phịa vội ra” mà cho đến mãi mãi về sau, anh cũng không có cơ hội để “cải chính”. Năm ấy, khi “tôi” - chàng lính trẻ vừa tròn mười bảy vừa được kết nạp vào một tiểu đoàn tân binh đóng quân ở Bãi Nai, vì đạt điểm cao nhất đội môn thiện xạ mà được chỉ huy cho phép hai ngày nghỉ. Song, “tôi” trở về nhà nhưng cũng nóng lòng trở lại tiểu đoàn, mười hai giờ trưa đã tức tốc chạy ra bến xe Kim Mã để bắt xe cho kịp. Sự vội vã, nôn nao ấy đã đem lại cho anh cuộc gặp gỡ định mệnh, gây biết bao thổn thức, nhớ thương. Những ngày giáp Tết, khi trời mưa rất mỏng cũng chưa tối hẳn, khi Giang đang đi gánh nước và “tôi” cũng đến giếng để “rửa ráy qua loa tí chút và xâu lại dép”. Giang giúp anh múc nước: “không xối cho tôi tự gột mà cúi mình xuống một tay nghiêng gầu nước dội nhè nhẹ, một tay cô cọ bùn đất ở ngón chân, bàn chân và bắp chân tôi”, lại “cọ kĩ cho tôi đôi dép đúc”. Hành động ân cần, chu đáo và tinh tế ấy đã khiến “tôi” sững sờ đến bất động, chàng trai mới lớn đã thực sự biết rung động. Giang mới “tôi” đến nhà, dọn cơm mời anh dùng bữa, bữa cơm trong “túp lều nhỏ, mái gianh vách đất” chỉ có “chiếc giường đơn, ngọn đèn hoa kì trên chõng tre, chiếc xe đạp Phượng Hoàng” - đơn sơ nhưng cũng ấm áp tình người. Bố của Giang - cũng là trung tá quân đội, xuất hiện với sắc mặt nghiêm nghị, nhìn chằm chằm hỏi chuyện, sau nét mặt dịu hơn, lại mỉm cười, động viên “tôi” và cho phép Giang lấy xe đạp đưa “tôi” về đơn vị. Cuộc gặp gỡ giữa “tôi” và bố Giang cũng diễn ra chóng vánh, nhưng cũng đủ để độc giả hình dung về người bố mẫu mực, đàng hoàng nhưng cũng rất đỗi tình cảm. Trong hoàn cảnh chiến tranh, cách xử sự của Giang và bố là hoàn toàn phù hợp. Như vậy, đằng sau cuộc gặp gỡ vội vã ấy là câu chuyện đầy ắp tình người, niềm tin tưởng tuyệt đối và tình thương yêu sâu sắc của đồng bào trong những ngày kháng chiến trường kì gian khổ nhưng huy hoàng của dân tộc.

Tác phẩm cũng phần nào thể hiện được những nỗi đau, những mất mát mà chiến tranh đã gây nên với con người. Tối ấy, “tôi” đèo Giang về Bãi Nai, anh chìm vào lời nói của Giang mà quên bẵng đi phải kiếm câu chuyện gì đó về mình để nói. Khi Giang đề nghị Tết vào đơn vị chơi với mình, anh chỉ biết thở một hơi thật dài rồi trầm ngâm suốt đoạn đường. Lúc chia tay, “tôi” nhìn bóng dáng Giang mờ dần trong màn đêm tĩnh lặng, hai người tạm biệt nhau mà những gì về Giang anh biết chỉ có tên phố Khâm Thiên, ngõ Chợ. Hai ngày sau, tiểu đoàn của “tôi” nhổ neo rời Bãi Nai hành quân lên Thường Tín, bất ngờ anh gặp lại bố của Giang, ông chính là tham mưu trưởng của chiến dịch lần này. Gặp lại người bạn của con, ông vô cùng ngạc nhiên và mừng rỡ. Ông còn bảo Giang muốn tặng anh một bức ảnh nhưng quên mang theo, để lần sau ông đem đến. Nhưng, chiến tranh khốc liệt, chẳng có một “lần sau” nào nữa, ông đã hi sinh trong trận chiến năm ấy. Nỗi đau mất cha, chỗ dựa duy nhất, vững chãi của cô gái mới lớn, có lẽ chẳng ngôn từ nào có thể diễn tả. Cũng sau lần đó, “tôi” không còn gặp lại Giang nữa - cuộc gặp gỡ lần đầu cũng là lần cuối.

“Chiến tranh, đời lính, tuổi trẻ, mọi sự là như thế, chỉ thế thôi, thoảng nhanh. Thoảng nhanh nhưng không tắt lịm,…” Hai đoạn văn cuối cùng của tác phẩm là suy ngẫm của tác giả về chiến tranh: thời gian sẽ phủ bụi, xóa nhòa đi tất cả nhưng không thể xóa đi kí ức của con người. Những mất mát, éo le, đau khổ, những vết thương không phương hàn gắn của chiến tranh sẽ luôn như ngọn lửa âm ỉ, thường trực trong tâm trí của người lính.

Không chỉ thành công trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng, tác phẩm cũng để lại ấn tượng cho người đọc về phương diện nghệ thuật. Về tình huống truyện, đó là tình huống nhỏ bé tưởng chừng vô nghĩa nhưng lại để lại ấn tượng, dư vị khó phai nhòa. Về điểm nhìn trần thuật, “Giang” được kể lại theo điểm nhìn của nhân vật tôi - anh tân binh. “Tôi” đã kể lại câu chuyện của cuộc đời mình theo trình tự thời gian một cách đầy đủ, trọn vẹn từ lúc bắt đầu tới khi kết thúc của một cuộc gặp gỡ tình cờ nhưng dư vị sâu sắc, khó phai nhòa. Lựa chọn điểm nhìn của nhân vật “tôi”, câu chuyện càng thêm phần trải nghiệm, chân thực, người đọc được cảm nhận sâu sắc hơn về tình người trong cuộc chiến, những cảm xúc rung động lãng mạn nhẹ nhàng, tinh tế và cả những xúc cảm về sự mất mát, về nỗi đau li biệt. Ngôi kể thứ nhất, không phải vị thế người kể “toàn tri” song đó mới chính là bản chất của con người trong cuộc sống hiện thực: không bao giờ biết được tất cả - đó cũng chính là nét đặc sắc trong nghệ thuật viết truyện ngắn của Bảo Ninh. Trong tác phẩm, tác giả cũng đã xây dựng những cuộc đối thoại đặc sắc, thông qua đó thể hiện rõ nét nội tâm, tính cách nhân vật; đồng thời ngôn ngữ xây dựng nhân vật là thứ ngôn ngữ giản dị nhưng sâu sắc giàu chất triết lý. Quả đúng như nhận xét của Mai Quốc Liên khi viết “Đọc truyện ngắn Bảo Ninh”, tác giả cho rằng Bảo Ninh không làm thơ, nhưng văn của ông “ẩn chứa một chất thơ đích thực, một chất thơ được gạn lọc từ những thân phận người và chan hòa vào trong một thiên nhiên buồn”.

Sinh thời, Bảo Ninh vẫn luôn quan niệm nghề văn là “một nghề chuyên nghiệp về sự ngẫm nghĩ, nhà văn tự cho mình là kẻ có khả năng, có trách nhiệm, có ham thú đúc kết thế thái nhân tình đặng tìm ra cho mình và bạn đọc của mình những giá trị, ý nghĩa ở hiện tại vừa thay đổi không ngừng theo đời sống con người”. Trong hành trình làm văn chân chính của mình, ông đã luôn cố gắng chỉn chu trong mọi tác phẩm, đem đến cho độc giả là kết quả của sự đúc kết những năm tháng trải nghiệm hiện thực tàn khốc và bút lực, cảm nhận tài hoa, tinh tế mà “Giang” là một trong số đó. Những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật đã làm nên thành công và sức sống mãnh liệt cho tác phẩm.

Bài tham khảo 2

Với hàng ngàn năm đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền đất nước, những cuộc chiến đã trở thành một điều hết sức quen thuộc đối với dân tộc Việt Nam. Bằng tài năng, tâm huyết và ngòi bút tài hoa của mình, các nhà văn, nhà thơ đã đứng ra nhận nhiệm vụ, trở thành những người 'thư kí trung thành của thời đại'. Họ đưa hiện thực vào trang sách, đem nó đến với độc giả bao thế hệ. Trong đó, ta không thể không kể đến nhà văn Bảo Ninh. Với giọng điệu nhẹ nhàng, điềm đạm, ông đã tái hiện cuộc sống của con người thời chiến rất đẹp, rất thật qua truyện ngắn 'Giang'.

Tác phẩm viết về chủ đề chiến tranh - một trong những nguồn cảm hứng bất tận của văn học. Ở đây, nhà văn Bảo Ninh không nhấn mạnh vào những cuộc chiến khốc liệt với đầy khói súng và bom đạn. Ông đưa đến cho ta bức tranh về cuộc sống của người lính trẻ vô danh, từ đó thể hiện tình cảm dân - quân gắn bó, thân thiết. Qua đó, ta cũng thấy được những mất mát, đau thương mà nhân dân phải chịu đựng trong những năm tháng chiến đấu gian khổ.

Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đem đến hình ảnh về người chiến sĩ mười bảy tuổi tràn đầy năng lượng với thành tích 'đạt điểm cao nhất đại đội' trong buổi kiểm tra xạ kích. Nhờ đó mà anh được thưởng hai ngày phép, dẫn đến cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh với cô gái tên Phạm Nhật Giang. Khi thấy chân tay người lính trẻ lấm lem bùn đất, cô gái đã ân cần, chu đáo tự mình cọ rửa hộ con người xa lạ kia. Sự tinh tế ấy khiến cho anh lính 'sững lặng' và 'bất động'. Không chỉ vậy, Giang còn nhiệt tình mời anh về nhà uống nước, thể hiện sự hồn nhiên, mến khách đáng quý. Thái độ của bố Giang với nhân vật 'tôi' cũng mang đến cho người đọc cảm giác gần gũi, ấm áp. Ban đầu, ông tỏa ra sự nghiêm nghị của một trung tá quân đội. Tuy nhiên khi hỏi chuyện, ông đã dịu nét mặt, động viên anh lính và thậm chí còn cho phép Giang lấy xe đạp đèo anh về đơn vị cho kịp giờ. Đến lần gặp gỡ thứ hai trên chiến trường, thái độ của ông niềm nở hẳn. Ông vui vẻ kể về đứa con gái đang đợi ở nhà, còn hẹn 'bữa sau' sẽ đưa cho nhân vật 'tôi' tấm ảnh Giang gửi.

Tuy vậy, chiến tranh vẫn là chiến tranh. Nó vẫn cướp đi nhiều thứ quý giá trong cuộc sống con người. Qua cuộc trò chuyện của đôi bạn trẻ, ta được biết gia đình Giang giờ đây không còn trọn vẹn. Mẹ cô đã mất, anh trai thì đi làm nhiệm vụ. Nhà cô ở ngõ Chợ Khâm Thiên, nhưng lại được bố đón về đây, ở trong một túp nhà đơn sơ để hai bố con gần nhau. Nỗi buồn và sự cô đơn bủa vây khiến Giang khao khát có một người bạn để tâm sự. Những chưa dừng lại ở đó, chiến tranh còn cướp đi cả bố của cô - vị tham mưu trưởng đáng kính trong một trận chiến 'vào cuối mùa khô'. Điều này vừa khiến Giang thêm cô độc, vừa biến 'tôi' và Giang trở lại làm hai con người xa lạ. Mối quan hệ vừa mới chớm nở giữa họ giờ đây thành 'một gặp gỡ vẩn vơ, lưu luyến mơ hồ gần như không có thật'. Tất cả đều là do cuộc chiến vô nghĩa, tàn khốc gây nên.

Qua truyện ngắn, người đọc còn thấy được ngòi bút nghệ thuật đầy tài hoa của tác giả. Ở đây, nhà văn Bảo Ninh đã đặt điểm nhìn vào nhân vật 'tôi' - một chiến sĩ vô danh để kể chuyện. Câu chuyện ấy như một trải nghiệm, một kí ức không thể nào quên đối với người lính trẻ, tạo cho người đọc sự tin tưởng và đồng cảm sâu sắc. Các nhân vật trong truyện cũng được xây dựng hết sức chân thực, gần gũi. Mỗi người lại có những lời nói, hành động thể hiện tính cách đặc trưng riêng. Không chỉ có vậy, tác phẩm viết về đề tài chiến tranh nhưng lại mang giọng văn điềm đạm, trầm ổn. Khi nhắc về sự hi sinh của tham mưu trưởng, ta chỉ thấy những dòng chữ ngắn gọn, cô đọng: 'Không có 'bữa sau ấy' [...] năm đầu tiên sư đoàn chúng tôi lâm trận'. Điều này cũng cho ta thấy sự từng trải của tác giả.

Đến với 'Giang', nhà văn Bảo Ninh đã chứng minh tài năng của mình qua việc thể hiện thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Không chỉ tái hiện cuộc sống con người Việt Nam thời chiến, tác giả còn mang tới bức tranh về tình quân - dân thắm thiết, keo sơn. Và dù cho có được lãng mạn hóa đến mức nào thì ta vẫn không thể xóa đi những thiệt hại mà chiến tranh đem đến. Nó vẫn sẽ là nỗi đau âm ỉ sâu trong lòng mỗi người để nhắc ta về một thời huy hoàng của lịch sử. Với cách lựa chọn ngôi kể, tình huống truyện cùng việc xây dựng các nhân vật giản dị, gần gũi, 'Giang' đã trở thành một điểm sáng trong muôn vàn tác phẩm cùng thể loại.

Chiến tranh lúc nào cũng tàn khốc, vô tình. Nhưng cũng nhờ đó mà nhân loại mới thấy trân trọng biết bao nền hòa bình, độc lập, thống nhất. Xã hội và con người ngày một phát triển. Vậy nên, là một công dân, ta cần chăm chỉ, nỗ lực phát triển và hoàn thiện bản thân, đóng góp sức lực vào công cuộc xây dựng, kiến thiết nước nhà. Chỉ khi có đầy đủ về tri thức và đạo đức thì ta mới có thể đưa Việt Nam 'sánh vai với các cường quốc năm châu' như lời mà Bác Hồ từng dạy.

1 82 lượt xem