Tác giả tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất

Tác giả tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

1 76 lượt xem


Tác giả tác phẩm: Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Ngữ văn 10

I. Tác giả

- Nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh sinh ngày 20/7/1934 tại thị xã Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sống ở Hà Nội.

- Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Ông còn có bút danh Vũ Ngàn Chi. Sinh trưởng trong một gia đình tiểu thị dân, Phạm Ngọc Cảnh được cha mẹ cho ăn học tử tế.

Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

II. Đọc tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất

Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu

gặp câu hát bền lòng giong ruổi mãi

đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi

Lí ngựa ô em hát đợi bên cầu.

Hoá vô tận bao điều mơ tưởng ấy

bao câu hát ông cha mình gởi lại

sao em thương câu lí ngựa ô này

sao anh nghe đến lần nào cũng vậy

sao chỉ thấy riêng mình em đứng đấy

chỉ riêng mình em hát với anh đây.

 

Làng anh ở ven sông

sắp vào tháng Tư,

mắt tình tứ rủ nhau về hội Gióng

mùi hương xông nụ cười lên nhẹ bẫng

ai cũng ngỡ mình đang đi trong mây

ai chẳng tin mình đang giong ngựa sắt

cả một vùng sông ai chẳng hát

sao không nghe câu lí ngựa ô này.

 

Thế mà bên em

móng ngựa gõ mê say

qua phá rộng duềnh doàng lên dọn sóng

qua truông” rậm đến bây giờ anh buộc võng

gặp mối dây buộc ngựa gốc lim già

suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện

suốt miền Trung núi choài ra biển

nên gập ghềnh câu lí ngựa ô qua.

[...]

Hay vì làng anh ở ven sông

những năm gần đây tháng Tư vào hội Gióng

đã hát quen lí ngựa ô rồi

khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng

móng gõ mặt thời gian gõ trống

khen câu miền Nam như giục như mời

ngựa tung bòm bay qua biển lúa

ngựa ghìm cương nơi sông xoè chín của

tiếng hí chào xa khơi...

Hay em biết quê anh ngoài đó

câu hát bắc cầu qua một thời Quan họ

câu hát xui nhau nên vợ nên chồng

lí ngựa ô này hát theo đường đánh giặc

có điều gì như thế ẩn vào trong!

[…]

III. Tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất

1. Thể loại

Thể thơ tự do

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

- Xuất xứ: Tập Đêm Quảng Trị

- Hoàn cảnh sáng tác: ra đời trong một mạch văn hào sảng khí thế của người lính trận.

3. Phương thức biểu đạt

Biểu cảm

4. Ý nghĩa nhan đề

Thể hiện nét văn hóa truyền thống của dân tộc qua những câu hát giao duyên, điệu hò, điệu lí và cho thấy nét giao lưu văn hóa cộng đồng của thế hệ xưa. Người xưa thường mượn các câu hát để thổ lộ lòng mình một cách kín đáo.

5. Tóm tắt tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất

Kể về cuộc chiến tranh đã qua

Lí ngựa ô ở hai vùng đất - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Chân trời sáng tạo (ảnh 1)

6. Bố cục tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất: 2 phần

- Phần 1: Câu hát ở làng anh

- Phần 2: Câu hát ở làng em

7.Giá trị nội dung tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất

- Tình yêu đôi lứa được thể hiện một cách dung dị đan xen với những nét đẹp văn hóa.

8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất

- Vận dụng lối hát đối đáp của những câu lý, điệu hò.

- Thể thơ tự do, kết hợp giữa mạch tự sự và mạch trữ tình.

IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Lí ngựa ô ở hai vùng đất

1. Câu hát ở làng anh

 - “Làng anh ở ven sông”: hát vào tháng Tư khi chuẩn bị hội Gióng.

- Câu hát Lí ngựa ô ở ''làng anh'' hát theo đường đánh giặc, ai nghe cũng ngỡ mình đang đi trong mây, chẳng ai tin mình đang giong ngựa sắt.

- Có thể thấy thời điểm “làng anh” là đang đi lính, ra trận.

2. Câu hát ở làng em

- Bên em: “móng ngựa gõ mê say”, “qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”.

- Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như một lời mời gọi, mang cảm giác mộc mạc của làng quê, sông nước miền Trung.

3. Vẻ đẹp ý nghĩa của những câu hát

- Những câu lí, câu hò và ca dao, dân ca nói chung như thể hiện vẻ đẹp, khát vọng của người dân.

- Họ đưa vào đó những mong ước, khát khao về sự yên bình, tình yêu lứa đôi, những tâm tư tình cảm.

- Cùng với đó là lòng yêu quê hương, đất nước

V. Các bài văn mẫu

Soạn bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất | Hay nhất Soạn văn 10 Chân trời sáng tạo

Đề bài: Phân tích bài Lí ngựa ô ở hai vùng đất

Bài tham khảo 1

Gặp câu hát bền lòng giong ruổi mãi

Đường đánh giặc trẩy xuôi về bến bãi

.....

Chỉ riêng mình em hát với anh đây”.

Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, cho thấy câu hát lí ngựa ô đã gắn liền với tuổi thơ của tác giả, trở thành niềm yêu, nỗi nhớ thương đi theo suốt cuộc đời tác giả.

 

Nghệ thuật điệp cấu trúc cú pháp: “sao em”, “sao anh”, “sao chỉ thấy” thể hiện niềm tự hào của tác giả về câu hát lý ngựa ô. Đồng tời giọng thơ của tác giả chứa chan tình cảm, cách xưng hô “anh – em” tạo cho người đọc trào dâng cảm xúc yêu thương, bình yên trong tâm hồn.

“Làng anh ở ven sông

.....

Sao không nghe câu lý ngựa ô này”.

Làng anh ở ven sông, ”quen hát Lí ngựa ô rồi”, hát vào tháng tư khi Hội Gióng. Câu hát Lí ngựa ô ở ”làng anh” hát theo đường đánh giặc, ai nghe cũng ngỡ mình đang đi trong mây, ai chẳng tin mình đang gióng ngựa sắt. Có thể thấy câu hát Lí ngựa ô như một khúc ca vang lên khi họ đi hành quân.

“Thế mà bên em

.....

nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua”.

Bên em: ”móng ngựa gõ mê say”, ”qua phá rộng duềnh doàng lên đợt sóng”. Ở bên em, câu hát Lí ngựa ô như một lời mời gọi, mang cảm giác mộc mạc của làng quê, sông nước miền Trung.

Anh ra trận, đến quê em lại nghe câu hát lí ngựa ô. Dường như câu hát đi theo anh từ thuở ấu thơ, đến lúc trưởng thành, tiếp thêm cho anh niềm tin, sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

 

“Hay vì làng anh ở ven sông

Những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng

.....

Đồng đội của anh đã chọn mùa thắng giặc

Cũng sắp về chia vui”

Câu hát lí ngựa ô ở hai vùng đất tuy có sự khác nhau về âm điệu nhưng vẫn có sự gặp gỡ, hòa hợp bởi ẩn trong mẫu câu hát là những tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình, là tình yêu lứa đôi.

“Em muốn về hội Gióng với anh không

Để anh khoe với họ hàng câu lý ấy

Em muốn làm dâu thì em ở lại

Lý ngựa ô xin cưới sắp về rồi”.

Câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về, giọng thơ nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm xúc mênh mang, dàn trải, nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng khuâng. Hội Gióng, câu hát lí ngựa ô chính là điểm đến trong tâm tưởng của tác giả. Ngay cả lời tỏ tình với người em gái cũng hướng về câu hát đầy kỉ niệm ấy.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa các biện pháp tu từ, tác phẩm Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã thể hiện được vẻ đẹp và sức sống của những điệu lý, điệu hò, ẩn sâu trong những câu hát đó là nét đẹp tâm hồn, là khát vọng của người dân. Họ đưa vào đó những mong ước, khát khao về sự yên bình, tình yêu lứa đôi, những tâm tư tình cảm, cùng với đó là lòng yêu quê hương đất nước

Bài tham khảo 2

“Khớp con ngựa ngựa ô

Khớp con ngựa ngựa ô

Ngựa ô anh khớp, anh khớp cái kiệu vang, ớ ơ ờ ớ ơ…

Anh tra khớp bạc, lục lạc đồng đen

Búp sen lá dặm, dây cương nhuộm thắm

Cán roi anh bịt đồng thoà.

Là đưa, í a đưa nàng, đưa nàng…

Anh đưa nàng về dinh…”

Đây là những câu hát em thường được nghe qua chiếc đài radio của ông em khi còn nhỏ. Lớn lên, em tìm hiểu và biết được đây là lời bài hát của bài Lý Ngựa Ô, một bài hát nổi tiếng của dân ca Nam Bộ. Bài hát đã để lại cho em ấn tượng sâu sắc vì nhịp điệu vui tươi, cùng với đó là hình ảnh những chú ngựa với nhiều sắc thái thật sinh động.

 

Gần đây, em được biết thêm trong nền văn học Việt Nam cũng có một bài thơ viết về làn điệu lý ngựa ô có tên Lý ngựa ô ở hai vùng đất. Bài thơ thuộc thể loại thơ tự do của tác giả Phạm Ngọc Cảnh, nằm trong tập Đêm Quảng Trị.

Hoàn cảnh ra đời của bài thơ vô cùng đặc biệt đó là trong mạch văn hào sảng khí thế của người lính ra trận. Bài Lý ngựa ô ở hai vùng đất đã kể lại cuộc chiến tranh đã qua của nước ta, xen lẫn vào đó chính là tình yêu đôi lứa được thể hiện thông qua làn điệu dân gian quen thuộc.

Đầu tiên, những làn điệu Lý ngựa ô được hát ở bên anh trong phần đầu của bài thơ:

“Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu

……

Cả một vùng sông ai chẳng hát

Sao không nghe câu lý ngựa ô này.”

Nó lẽ hình ảnh những con ngựa đã xuất hiện trong tâm trí nhân vật anh ngay từ khi còn nhỏ. “Anh lớn lên vó ngựa cuốn về đâu”, ở đây nhà thơ Phạm Ngọc Thạch đã sử dụng nghệ thuật hoán dụ ngay câu đầu tiên của bài thơ với từ “vó ngựa” để chỉ giặc ngoại xâm.

Qua đó, có thể thấy anh lớn lên khi đất nước còn loạn lạc, trong thời kì chống giặc cứu nước. Nhưng dù trong tình cảnh chiến tranh khói lửa, những người dân sinh ra ở nước Nam hào hùng vẫn không bao giờ ngừng yêu thương lẫn nhau và lan tỏa tình yêu đó để tiếp thêm sức mạnh cùng nhau bảo vệ nước nhà.

 

Tình yêu tổ quốc, tình yêu con người đó đã được thể hiện qua những câu hát dân gian quen thuộc là làn điệu Lý ngựa ô em hát. Câu hát như tiếp thêm sức mạnh cho anh khi hành quân đánh giặc, như em vẫn luôn đợi anh về và cũng đại diện cho quê hương đang cần anh bảo vệ.

Ở đoạn tiếp theo, tác giả sử dụng nghệ thuật điệp ngữ để làm tăng thêm tính tự hào của nhân vật anh về làn điệu Lý ngựa ô được truyền lại từ thời cha ông. Làn điệu lý ngựa ô là điều quý giá mà cha ông để lại, khiến cho anh hay em đều yêu thích nó và nghe đi nghe lại không biết bao nhiêu lần. Từ niềm tự hào đó, nhân vật anh đã khéo léo thổ lộ tình cảm với người thương của mình, nhắc tới câu hát lý ngựa ô, anh nghĩ ngay tới em, và nghĩ tới khung cảnh được cùng em hát vang làn điệu này.

Không chỉ riêng mình anh, mà cả “làng anh”, quê hương của anh đều yêu làn điệu lý ngựa ô. Quê của nhân vật trữ tình “anh” được miêu tả nằm ở “ven sông”. Và đặc biệt đây là nơi gắn với truyền thuyết Thánh Gióng, câu chuyện truyền thuyết có xuất hiện ngựa sắt, con vật đồng hành cùng Thánh Gióng đánh giặc.

 

Mỗi năm, vào tháng tư, làng anh lại mở hội Gióng, mọi người khắp nơi tới để tham gia lễ hội và bày tỏ lòng thành kính biết ơn với Thánh Gióng nên “mùi hương” đã được thắp tỏa ra khắp nơi. Khi hội Gióng diễn ra là lúc truyền thuyết về Thánh Gióng lại được ôn lại và truyền bá đến với con cháu đời sau.

Lúc đó, làn điệu Lý ngựa ô sẽ lại vang lên, như một làn điệu hành quân của Thánh Gióng khi xưa cùng với chú ngựa sắt của mình. Làng anh cùng hát làn điệu lý ngựa ô khiến cho bất kể ai tham gia hội Gióng cũng sẽ có cảm giác như mình đang được “đi trên mây” và “rong ngựa sắt” vậy.

Đến với vùng đất thứ hai cũng yêu làn điệu Lý ngựa ô không kém chính là bên nhân vật em:

“Thế mà bên em móng ngựa gõ mê say

qua phá rộng duềnh doàng lên dợn sóng

qua truông rậm đến bây giờ anh buộc võng

gặp mối dây buộc ngựa gỗc lim già

suốt miền Trung sông suối dày tơ nhện

suốt miền Trung núi choài ra biển

nên gập ghềnh câu lý ngựa ô qua…”

Có thể thấy, nếu như quê anh gắn với truyền thuyết Thánh Gióng ở miền Bắc Bộ thì quê em lại ở miền Trung, nơi móng ngựa “gõ mê say” để băng qua phá “rộng duềnh doàng lên dợn sóng” hay qua cả “truông rậm”. Đây là hai vùng địa hình đặc trưng của dải đất miền Trung nước ta, phá chính là vùng nước mặn có dải đất và cát ngăn với biển, được nối thông ra ngoài biển bằng một dòng nước hẹp.

 

Còn truông chính là chỉ vùng đất hoang, có cây cối rậm rạp. Có lẽ đây không chỉ là quê hương em, mà còn là nơi hai nhân vật trữ tình gặp nhau, nơi nhân vật anh phải đi đánh giặc. Anh phải trải qua biết bao khó khăn, bắc võng ngủ ở truông hoang sơ, buộc ngựa ở gốc lim, trải qua muôn trùng cách trở bởi miền Trung có “sông suối dày” như “tơ nhện”, “núi choài ra biển”.

Những lúc như vậy, làn điệu lý ngựa ô thân quen theo anh từ thuở tấm bé lại được em ca vang lên, như để tiếp thêm sức mạnh cho anh mạnh mẽ hơn để bảo vệ tổ quốc.

Rồi làn điệu lý ngựa ô ở hai vùng đất bên anh và bên em được gặp gỡ và giao lưu với nhau:

“Hay vì làng anh ở ven sông

những năm gần đây tháng tư vào hội Gióng

đã hát quen lý ngựa ô rồi

khen câu miền Trung qua truông dài phá rộng

móng gõ mặt thời gian gõ trống

khen câu miền Nam như giục như mời

ngựa tung bờm bay qua biển lúa

ngựa ghìm cương nơi sông xoè chín cửa

tiếng hí chào xa khơi…

hay em biết quê anh ngoài đó

câu hát bắc cầu qua một thời quan họ

 

câu hát xui nhau nên vợ nên chồng

lý ngựa ô này hát theo đường đánh giặc

có điều gì như thể ẩn vào trong?”

Tuy cùng làn điệu lý ngựa ô, nhưng câu hát ở mỗi vùng lại được thêm vào đó những đặc trưng riêng của quê hương mình. Ở bên anh câu hát lý ngựa ô gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Ở nơi em, lại gắn với truông dài phá rộng của miền Trung. Hay miền Nam, lý ngựa ô lại có âm điệu “như giục như mời”, những câu hát gắn với hình ảnh ngựa bay qua vựa lúa bát ngát, ngựa chạy ở nơi sông Cửu Long “sông xòe chín cửa” để vươn ra biển lớn, cất tiếng hí vang “chào xa khơi”.

Ẩn chứa trong sự hòa hợp, giao lưu của các làn điệu lý ngựa ô của các vùng miền lại là lời tỏ tình của chàng trai miền Bắc dành cho người thương của mình. Chàng giới thiệu với em làn điệu giao duyên của vùng quê quan họ Bắc Ninh nổi tiếng xứ Bắc, hay còn gọi là “câu hát xui nhau nên vợ nên chồng” như một lời tỏ tình chân thành và tinh tế.

Rồi chàng ẩn ý muốn hỏi nàng, vậy những câu hát lý ngựa ô theo suốt những con đường đánh giặc bao đời nay, có chứa đựng được tình cảm nam nữ như những câu hát quan họ hay không? Đây như một lời mong mỏi của chàng trai, với ước muốn người yêu có thể làm hậu phương vững chắc cho mình đánh giặc, đợi mình khải hoàn trở về.

Qua bài thơ Lý ngựa ô ở hai vùng đất, người đọc chúng ta như được thả trôi tâm hồn vào với những làn điệu lý ngựa ô, một làn điệu dân ca nổi tiếng không kém với làn điệu quan họ. Bài thơ đã thể hiện được vẻ đẹp của dân ca lý ngựa ô ở dọc ba miền của đất nước, từ bắc vào nam, ở bất kì nơi đâu, điệu lý ngựa ô cũng thật đẹp và chứa đựng những đặc trưng riêng của vùng miền đó.

Từ điệu hò lý ngựa ô, các nhân vật trữ tình đã bộc lộ được tình cảm của mình dành cho nhau cũng như tình yêu với đất nước. Truyền thống yêu nước và yêu thương lẫn nhau đã khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi một người dân Việt Nam, giống như làn điệu lý ngựa ô đã in sâu vào văn hóa bao đời nay của đất nước ta.

1 76 lượt xem