Tác giả tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam (Chân trời sáng tạo 2024) Ngữ văn 10 chi tiết nhất
Tác giả tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam Ngữ văn lớp 10 sách Chân trời sáng tạo đầy đủ bố cục, tóm tắt, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, nội dung chính, ... giúp học sinh học tốt môn Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:
Tác giả tác phẩm: Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam - Ngữ văn 10
I. Tác giả
- Nhóm biên soạn tổng hợp từ “Tranh dân gian Đông Hồ - Đông Hồ Folk Paintings” của An Chương và “Tranh Đông Hồ - Nét tinh hoa văn hóa dân gian Việt Nam” của Khánh An.
II. Đọc tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam
Tranh dân gian Đông Hồ hấp dẫn người xem ở màu sắc, bố cục, khuôn hình với các chất liệu hoàn toàn tự nhiên. Vẻ đẹp của tranh Đông Hồ gần gũi, ấm áp nhưng cũng rất độc đáo. Đó là một di sản quý giá cần được gìn giữ, phát huy .
1. Đề tài dân dã, hình tượng sinh động, ngộ nghĩnh
Từ những hình ảnh mộc mạc, bình dị của làng quê như gà, lọn, trâu, bò, tôm, cá,... các nghệ nhân Đông Hồ đã vẽ nên những bức tranh ngộ nghĩnh, tràn đầy sức sống và gửi gắm nhiều ước mong. Khi vào tranh, gà thì thành Gà đại cát, Gà thư hùng; trâu thành Trâu sen, lọn thành Lợn đàn, Lợn độc; em bé âu yếm, đùa nghịch với con gà, con tôm thì thành các hình tượng Bé ôm gi, Bé ôm tôm,... Những mặt trái, những góc khuất của đời sống nông thôn vào tranh trở thành những câu chuyện hài hước được kể bằng đường nét màu sắc trong Đám cưới chuột, Trạng chuột vinh quy, Thầy đồ Cóc, Truyện Trê – Cóc, Hứng dừa, Đánh ghen,…
2. Chất liệu tự nhiên, sắc màu bình dị, ấm áp
Phong vị dân gian của tranh Đông Hồ thấm nhuần trong ý tưởng, cảm hứng nghệ thuật, đường nét, bố cục cũng như chất liệu giấy, màu sắc, quá trình chế tác,...
Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp: vỏ con điệp (sò biển) được nghiền nát, trộn với hồ rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó. Màu sắc sử dụng trong tranh là màu tự nhiên lấy từ cây có: màu đen từ than xoan hay than lá tre; màu xanh từ gỉ đồng, lá chàm; màu vàng từ hoa hoè; màu đỏ từ sỏi son, gỗ vang,... Bốn gam màu cơ bản này tương ứng với một bộ thường gồm bốn bản khắc gỗ để in tranh Đông Hồ.
3. Chế tác khéo léo, công phu
Các nghệ nhân đã lấy đề tài và ý tưởng ngay trong cuộc sống hằng ngày hoặc từ các truyện dân gian (truyện cổ tích, ngụ ngôn, truyện cười,...) để vẽ mẫu. Khi đã hoàn chỉnh bản thảo, người sáng tác can lại rõ ràng, mạch lạc từng nét, từng bảng màu bằng mực nho lên giấy bản mỏng và sắp xếp đưa vào bản khắc gỗ. Mỗi màu được tách riêng thành một bản khắc, một tranh có bao nhiêu màu là có bấy nhiêu bản khắc.
Khi in, người làm tranh đặt cả xấp giấy in thành từng chồng trước mặt, tay phải cầm “tay co” đóng sau lưng ván in, úp ván xuống “bìa” đã quét đẫm màu, được làm theo kiểu hộp mực dấu để lấy màu vào bản khắc, rồi úp mặt ván khắc đã thấm màu đó lên mặt giấy như cách đóng triện, xong lật ngửa ván khắc lên, tờ giấy đã dính vào ván khắc vì màu được pha bằng hồ nếp đặc quánh.
Thợ in lấy xơ mướp xoa đều lưng mặt giấy để mực màu thấm đều mặt giấy, sau đó nhẹ nhàng bóc tờ giấy khỏi ván in, sẽ được một lần in. Tranh bao nhiêu màu, in bấy nhiêu lần.
4. Rộn ràng tranh Tết
Cứ khoảng tháng 7, tháng 8 hằng năm, là cả làng đã tất bật để chuẩn bị cho mùa tranh Tết, khắp làng rực rỡ sắc màu của giấy điệp, không một mảnh đất trống nào không được người dân làng Hồ tận dụng để phơi giấy: từ sân nhà, sân đình, ven các ngõ xóm, đường làng, dọc theo triền đê cho đến các nóc nhà, nóc bếp,... Mỗi năm một lần, chợ tranh họp vào tháng Chạp trong các ngày 6, 11, 16, 21, 26. Chợ tranh đông vui, sầm uất được tổ chức ngay trong đình làng. Người buôn tranh mua ở chợ và còn vào từng gia đình đặt và chọn mua. Họ mang cả những đặc sản địa phương tới bán và đổi tranh. Người dân thôn quê mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới.
5. Lưu giữ và phục chế
Làng tranh Đông Hồ từng có một thời cực thịnh: vào khoảng cuối thế kỉ XIX đến những năm 40 của thế kỉ XX. Tuy nhiên, xu thế thương mại hoá thời kinh tế thị trường gần đây đặt dòng tranh Đông Hồ cũng như các dòng tranh dân gian khác trước nguy cơ mai một, thất truyền. Rất may là ở Đông Hồ, còn có những nghệ nhân, những dòng họ vẫn giàu tâm huyết với nghề. Họ đã cố gắng vượt qua nhiều khó khăn, chật vật của đời sống thường ngày để duy trì, nuôi dưỡng nghề tranh mà bao thế hệ đã góp công gây dựng. Đặc biệt, việc kịp thời thu mua lại, lưu giữ cả trăm bản khắc cổ, đồng thời phục chế hàng trăm bản khắc gỗ khác,... là một trong những cách đầu tiên và hiệu quả để cứu nghề tranh Đông Hồ.
III. Tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam
1. Thể loại
Văn bản thông tin
2. Phương thức biểu đạt
Thuyết minh
3. Tóm tắt tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam
Văn bản trình bày những đặc điểm nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ từ đề tài dân dã, hình tượng sinh động, ngộ nghĩnh, chất liệu tự nhiên, sắc màu bình dị, ấm áp. Cách chế tác khéo léo công phu và tỉ mỉ.
4. Ý nghĩa nhan đề
Thể hiện rõ sự quan trọng của dòng tranh dân gian Đông Hồ trong văn hoá và nghệ thuật Việt Nam. Thông qua nhan đề, ta có thể thấy rõ điểm nổi bật của tranh dân gian Đông Hồ đến từ sự dân dã, tự nhiên của nghệ thuật dân gian
5. Bố cục tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam: 5 phần
1. Đề tài dân dã, hình tượng sinh động, ngộ nghĩnh
2. Chất liệu tự nhiên, sắc màu bình dị, ấm áp
3. Cách chế tác khéo léo công phu và tỉ mỉ.
4. Rộn ràng tranh Tết
5. Lưu giữ và phục chế
6. Giá trị nội dung tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam
- Ca ngợi vẻ đẹp văn hóa truyền thống tranh Đông Hồ của dân tộc
- Phát huy tinh thần yêu mến, trân trọng tìm hiểu về các tinh hoa văn hóa truyền thống của dân tộc
7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam
- Bố cục trình bày rõ ràng, nguồn thông tin đáng tin cậy, chi tiết.
IV. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Tranh Đông Hồ - nét tinh hoa của văn hóa dân gian Việt Nam
1. Đề tài dân dã, hình tượng sinh động, ngộ nghĩnh
Những hình ảnh quen thuộc, bình dị trong đời sống hằng ngày như gà, lợn, trâu, bò, ...; những góc khuất của đời sống nông thôn là đề tài quen thuộc, chủ yếu và được sáng tạo trong các bức tranh Đông Hồ.
2. Chất liệu tự nhiên, sắc màu bình dị, ấm áp
- Chất liệu: giấy điệp, chổi lá thông để quét lên.
- Màu sắc: màu đen từ than xoan hay than lá tre; màu xanh từ gỉ đồng, lá chàm; màu vàng từ hoa hòe; màu đỏ từ sỏi son, gỗ vang; ... à 4 gam màu chủ đạo.
3. Chế tác khéo léo, công phu
- Vẽ mẫu.
- Can lại rõ ràng từng nét, bảng mày bằng mực nho lên giấy bản mỏng rồi xếp vào bản khắc gỗ.
- Khi in, đặt xấp giấy in trước mặt; tay phải cầm “tay co” đóng sau lưng ván in, úp ván xuống “bìa” để quét đẫm màu; úp mặt ván khắc đã thấm màu lên mặt giấy; lật ngửa ván khắc lên.
- Thợ in lấy xơ mướp xoa đều lưng mặt giấy để màu mực thấm đều; bóc từ giấy khỏi ván in; số màu của tranh tương ứng với số lần in.
4. Rộn ràng tranh Tết
- Khoảng tháng 7, tháng 8 hằng năm là dịp để chuẩn bị cho mùa tranh Tết.
- Chợ tranh họp vào tháng Chạp trong các ngày 6, 11, 16, 21, 26.
5. Lưu giữ và phục chế
- Vào khoảng cuối thế kỉ XIX đến những năm 40 của thế kỉ XX là thời kì hưng thịnh. Xu thế thương mại hóa thời kinh tế thị trường đã làm chúng dần mai một, thất truyền.
- Ở Đông Hồ vẫn có những nghệ nhân tâm huyết với nghề, cố gắng để duy trì, nuôi dưỡng nghề tranh Đông Hồ này.